Truyện ngắn cánh đồng bất tận từ ba góc nhìn
11-11-2011
TRUYỆN NGẮN CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN
TỪ BA GÓC NHÌN
Hoàng
Đăng Khoa
TỪ GÓC NHÌN LÝ THUYẾT HẬU HIỆN ĐẠI
1. Kiếp người với nỗi cô đơn bất tận
1.1. Những thực thể người - những mảnh ghép rời rạc bên
nhau
Quan hệ giữa những con người của kỉ
nguyên hậu hiện đại dường như “là mảnh vỡ, là chắp nối, là những phiến đoạn chia cắt của cuộc đời”
[2, 28]. Con người hậu hiện đại vì thế cô đơn, lạc loài ngay giữa gia đình, quê
hương. Giữa gia đình nhưng họ vẫn “không gia đình”, giữa quê hương nhưng họ vẫn
“thiếu quê hương”.
1.1.1. Những mảnh ghép chồng - vợ
Có một sự “lệch pha” cơ bản ngay với cả
những - cặp - người tưởng chừng như “tuy hai mà một”, giữa họ rất ít sự kết
dính, mỗi một thực - thể - họ là mỗi một mảnh
vỡ cô đơn.
Trong
CĐBT, Út Vũ cứ “hì hục lót những
cục đá tảng, những thân dừa chẻ hai quanh hè, dài theo những lối đi ra vườn, ra
bến” để suốt một mùa mưa, chân vợ “không
bị dính sình bùn”, cứ “trải lòng yêu
thương” bất tận, “gánh hết sự kiếm
sống nhọc nhằn” cốt để mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho vợ mà lại không
hề biết đến những “tiếng thở thườn thượt,
nghe buồn mênh mông, chảy từng giọt như nước mắt” của vợ bởi hai túi áo chị
quanh năm “mỏng kẹp lép”. Út Vũ không
biết rằng vợ mình cùng những người đàn bà lam lũ quê mình ngày ngày trông ngóng
“chiếc ghe chở đầy vải vóc”, họ “trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, tíu
tít, háo hức, thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng
tiếc nuối, ngậm ngùi”. Cả đời, cái bồ lúa lõm đi từng ngày “luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh
tật, chuyện cất lại cái nhà, hay dựng vợ gả chồng cho con cái”. Thì ra, cái
mà Út Vũ cho là lòng yêu thương bất tận, là cái - tinh - thần, còn cái mà vợ
anh ta muốn nhận lại không chỉ có thế mà còn là cơm áo gạo tiền, là cái - vật -
chất nữa.
Đối
với đa số những cặp vợ chồng quê mùa khác thì tình hình lại khác. Những người
chồng không hề nghe thấu nỗi khát thèm tình yêu thương, sự quan tâm âm ỉ cháy
bên trong những người vợ tưởng chừng như chỉ quan tâm đến cái đói, miếng ăn. Họ
đã tự tay đẩy người đàn bà của mình đến với Út Vũ, bằng nhiều cách. “Họ thích uống say, họ thích dùng tay chân để
tỏ rõ uy quyền. Mệt nhọc làm lụng trên đồng, người đàn ông đã trở nên khô cằn,
có khi cả đời, họ không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử tế. Họ không biết
vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả mãn, rồi quay
lưng ngủ khò”.
Rõ
ràng, sự thiếu thốn, có thể là vật chất, có thể là tinh thần, có thể là cả hai
nơi con người là bất tận, dục vọng của con người là bất tận, nhưng ngay cả
những người gần kề nhất cũng không thể “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu
hiểu” để lấp phần nào khoảng trống trong nhau. Họ, vì thế, trở thành những -
cặp - người cô đơn bất tận.
1.1.2. Những mảnh ghép cha mẹ - con
cái
Trong
CĐBT, khi thấy mẹ ướm thử lên người “những
khúc vải rực rỡ”, “đỏ lạ lùng”, “đỏ hơn cả máu”, hai đứa nhỏ “nhìn trân trân” vì “má lạ quá”. Chúng chê
nhưng bà mẹ lại tưởng là khen nên “mừng quýnh”. Và đứa con gái “muốn khóc quá chừng, má con xa lạ với nhau
mà sao lại mừng?”.
Là
cha con trong gia đình nhưng sau cuối
tận cùng đổ vỡ bởi cuồng tín, với hai đứa con vô tội, người cha luôn “ơ thờ, lạt lẽo, chuyện gì cần nói thì nói
vài câu nhát gừng”. “Thành ra, cái
ghe thấy nhỏ, lại rộng vô cùng tận, loay hoay chỉ có ba con người, nhưng nhiều
năm trôi qua, hai chị em vẫn cảm thấy xa cách cha”, “chỉ dám đứng xa mà nhìn” cha, khoái chí vô cùng khi nghe cha gọi
“Nương à”, “Điền ơi” (cha đóng tuồng khi có người trong xóm thăm lúa ghé qua
chòi), “xốn xang” đến không muốn ngủ
khi mãi sau này (trong cơn hối hận muộn mằn của người cha), mới nghe cha đứng
đằng xa, bảo, “Nương, ngủ sớm đi!”. Trước đó quan hệ cha con ngày mỗi thêm rời
rạc, “những bữa ăn nối tiếp nhau trong im
lặng”. Cha con “tập nhìn nhau”
hết sức khó khăn. Ngày đầu tiên đứa con gái có kì kinh nguyệt, nó và thằng em
đã đi đến tận cùng hoảng loạn nhưng hôm ấy dù người cha có ở gần đấy thì hai
đứa trẻ “cũng chẳng thể cầu cứu”.
Giữa cái ghe nhỏ, giữa 3 con người là cô đơn ngập ngụa.
1.1.3. Những mảnh ghép người tình -
người tình
Những
người đàn bà bất tận cô đơn, bất tận khát thèm cái gọi là tình yêu cứ thay
phiên nhau như những con thiêu thân lao vào Út Vũ. Và họ lần lượt, sau nhiều
nhẫn nại, cố gắng, cũng chiếm được Út Vũ nhưng cái mà họ chiếm được chỉ là tấm
lưng đã từng “vồng lên trong nắng sớm”,
là “những thớ thịt đỏ au” của người
đàn ông tứ tuần mà họ từng có dịp chiêm - ngưỡng - trộm mà thôi. Họ không thể
nhìn thấu cõi lòng bất tận “hoang hoải,
chán chường”, cái “vết thương cũ mở
miệng toang hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy”… nơi “người tình” của
mình. Ngay cả khi họ tưởng như đạt đến “vô biên và tuyệt đích” của sự “hai
trong một” thì họ cũng không biết được trong người đàn ông của mình đã “không còn một chút cảm xúc nào”, anh ta
“vùi mặt vào da vào thịt, ngấu nghiến”
mình mà lòng anh ta “lạnh ngắt”, anh
ta “làm chuyện đó thì cũng giống như mấy
con vịt đạp mái” mà thôi, họ không đọc thấu được nét mặt anh ta “tràn ngập những rắp tâm”, “toan tính chuyện phụ phàng”.
Khi
chị “đĩ” mang thân đi “đổi chác” với hai người đàn ông khác,
cái tiếng gọi, “quay lại đi, Sương” từ
người đàn ông (tưởng đã là) của mình chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của chị.
Không những thế, sau khi chị khuất ngõ, anh ta “ngủ ngon dễ sợ”, tiếng ngáy “sao
mà đều, sao mà thơ thới”.
Và
oái oăm thay, Điền lại đem lòng yêu chị “đĩ”, người của cha mình, nhưng “tình yêu đó khiếm khuyết mất rồi”, đó
chỉ là “kiểu yêu tinh thần”. Chị đĩ “táo tợn làm gì đó” nơi phần bụng dưới
của thằng con trai 17 tuổi chỉ để mà “phát
hiện ra một mất mát lớn lao” vì bản năng của một gã đàn ông trong Điền
không hề cựa quậy. Điền đuổi theo chị, trong khi “chị thì chạy theo cha. Một cuộc đua rã rượi, chẳng đến đâu”.
Như
vậy, ta thấy, trong chuỗi ghép mảnh
người tình - người tình, CĐBT đã
“không ngại” cho xuất hiện nhiều “pha” tình dục nhưng có điều, không đi vào
(hoặc không đơn thuần) miêu tả chuyện gối chăn mà cốt hướng đến kiểu tình dục mảnh
vỡ, từ đó phơi lộ sự trống vắng, cằn cỗi, không tái sinh của đời sống tình
cảm, đời sống vật chất của con người. Tình dục đúng nghĩa phải là nơi triệt
tiêu khoảng cách cả về tâm hồn cả về thể xác giữa một cặp người. Nhưng ở đây,
những chuyện tình dục được đề cập chỉ là tình dục mảnh vỡ, hoặc là tình
dục không đi kèm tình yêu, hoặc là cảm xúc chỉ từ một phía, hoặc là tình dục
bất lực.
1.1.4. Những mảnh ghép đồng loại -
đồng loại
Ngay
đến cả những cặp - người: chồng – vợ, cha/mẹ - con, người tình - người tình mà
giữa họ vẫn là bất tận trống vắng, huống là những mảnh vỡ giữa “biển
người mênh mông”?
Khi nhân vật “tôi” chạy qua nhà hàng xóm
để báo rằng “má đi mất tiêu rồi” mong
tìm sự cầu cứu, cảm thông, chia sẻ thì… “mọi
người không thất vọng”, “cả xóm tưng
bừng, kẻ mừng vì vợ mình chưa bỏ theo trai, người vui vì con đàn bà đẹp nhất
xóm đã đi rồi, khỏi lo ông chồng suốt ngày thòm thèm dòm ngó”.
Và
gia đình Út Vũ, 3 mảnh vỡ cô đơn bắt đầu “không gia đình”, “thiếu quê
hương”, mượn cớ nuôi vịt chạy đồng để chạy trốn đồng loại, tự giam cầm trong
cõi cô đơn bất tận. Để rồi, trên “cánh
đồng bất tận” nơi bầy vịt đưa họ đến, hai đứa trẻ nhiều lúc “nhớ con người”. Chúng “chẳng phải bình thường”, “thấy mình nghèo rơi nghèo rớt, nghèo đến nỗi
không có… ông nội để thương”. Chúng “biết đâu nguồn cội”, lạc loài giữa
nhân quần. Chúng “kì dị, đến mức nhiều
khi tự giật mình”. Chúng “tạm quên
nỗi buồn của cõi - người” để làm bạn với vịt. Chúng dường như đã quên tiếng
người. Mỗi bữa ngồi vào mâm, chúng “chan
nước vào chén cơm như chan nỗi trống trải khủng khiếp”. Và khi bị lũ thằng
Hận cưỡng hiếp, cô con gái đã “cười cợt”
nói những lời chắc nịch: “Chúng mày có
lột bỏ có trăm có ngàn, tầng tầng lớp lớp những vỏ bọc, cũng chẳng bao giờ thấu
đến tận tao”.
1.2.
Những con người đổ vỡ sau cuối “cun cút tin và yêu” - nạn nhân của chủ nghĩa cuồng tín
Người
cha trong CĐBT cứ đinh ninh tưởng, cứ hồn nhiên tin rằng cứ trải tấm
lòng thì sẽ được đáp đền xứng đáng, vĩnh viễn nắm giữ trái tim người mình yêu
thương. Nhưng hoá ra, những gì anh ta tin không có thực. Cuối cùng, tình yêu
thương bất tận của người chồng tuổi tứ tuần với “khuôn mặt chữ điền ngời ngợi” “đẹp
trai dễ sợ” “quyến rũ từ cái cười, từ
câu nói, từ ánh nhìn thăm thẳm, ngọt ngào”… hoá vô nghĩa, phù phiếm, xa xỉ
trước điều giản dị cơm áo gạo tiền, trước “chiếc
ghe chở đầy vải vóc” của người đàn ông “chẳng
cao ráo, đầu ít tóc”, “khuôn mặt và
tấm lưng trần chi chít những nốt ruồi”. Và, cái gì đến phải đến, người đàn bà
tưởng vĩnh viễn của anh ta đã “rũ một cái
sột, sạch trơn” để lên ghe cùng chủ của nó đi tìm miền đất hứa, chẳng thèm
mang theo thứ gì (vì xem ra chẳng có thứ gì đáng mang theo). Khi nghe tin dữ,
thật chứ không hề là “chuyện giỡn”,
Út Vũ từ trên ghe “tuột xuống đất, run
rẩy”, rơi tõm xuống hố sâu bất tận của sự đổ vỡ. Để rồi từ đó, “đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi là một
hố đen sâu thẳm”, là “nỗi đau sâu
hoắm”, là mối hận thù bất tận. Nhưng “càng
gieo rắc càng đau”. Và rồi, “trong
chuỗi rất dài của sự trừng phạt”, cậu con trai đã bị mất bản năng của một
gã đàn ông, rồi mất tích; cô gái đã trở nên rất “quái dị, khác thường”; “trong
ý thức cầu cứu, một bản năng đơn giản nhất, đứa con gái đã quên mất người cha”.
Và sau cuối, lũ thằng Hận “đè nghiến”,
giữ cho mặt ông hướng về phía cô con gái khi bọn chúng thay phiên nhau cưỡng
hiếp, giữ cho ông chỉ một tư thế đó.
Không
chỉ riêng Út Vũ, những người đàn bà quê mùa “quá giang một khúc đời” với anh ta cũng là hiện thân nạn nhân của
sự cuồng tín của chính mình. Người đàn bà ở Bàu Sen cứ buộc mình tin rằng sự
chọn lựa (rất nhanh, “mặt tở mở và rạng
rỡ, gần như không suy nghĩ gì”) của mình là đúng, tình yêu của mình “xứng đáng được đánh đổi. Xóm làng, ngôi nhà,
vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con gái”. Nhưng than ôi, “ngày vui
ngắn chẳng tày gang”, chị bị người đàn ông (tưởng) của mình bỏ lại, khi vừa đi
được một đoạn đường.
Những
người đàn bà sau này cũng cuồng tín như thế, ngây thơ tin như thế và cũng bị bỏ
rơi đúng lúc như thế sau khi họ “vừa đủ
yêu, vừa đủ đau, vừa đủ bẽ bàng”. “Có
người vừa bán xong cái quán nhỏ của mình. Có người vừa nói xong những lời dứt
tình với chồng, con. Có người vừa phũ phàng chia xong gia sản… Hết thảy đều cun
cút tin và yêu”. Người đàn ông “mang
họ đi một quãng đường vừa đủ để người ở lại nhìn rõ chân dung của sự phản bội,
sau đó người đàn bà bị hắt lên bờ. Con đường quay về bị bịt kín”.
Và
sau cuối là chị “đĩ”, sau chuỗi ngày “cun
cút tin và yêu”, cun cút hướng thiện (những tưởng đã có riêng bến bờ để neo
đậu “thuyền em rách nát”), đã ê chề đến chết lặng khi chứng kiến người đàn ông
(cứ tưởng) của mình “thơ thới” ngủ
giữa khi mình mang thân đi “đổi chác”
với những thằng đàn ông khác. Cuối cùng chị cũng thức ngộ ra người vợ bỏ chồng
con theo trai của anh ta “ác một”
nhưng anh ta “ác tới mười”. Và rồi,
chị đã “quay đi. Chân vướng dấp dúi vào
cỏ. Con đường nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím”, tím như nỗi ê hề nhục
nhã của chị - người đã từng “bao quản lấm đầu” kiếp “thân lươn”.
Đời
không có gì là không thể xảy ra. Con người ta cứ tưởng, cứ tin nó là thế này
nhưng hóa ra lại là thế khác. Cái triết lí sống trong đời sống cần có đức tin
xem ra “lạc hậu” giữa kỉ nguyên hậu hiện đại.
2. Cái giá mà con người phải trả vì (đôi
khi, một cách vô thức) không biết tha thứ là bất tận
Chúng
ta đều biết, do đổ vỡ, mất niềm tin nên Út Vũ đã nới rộng đến bất tận sân hận,
triệt tiêu sân yêu, quay sang trả thù đời, trả thù thế giới phụ nữ - một nửa
của nhân loại, cho nên, sau cuối, “sự
trừng phạt, sự báo ứng” mà anh ta phải lãnh, như đã nói ở trên, là bất tận.
Con người không nên tự biến mình thành nạn nhân của chủ nghĩa cuồng tín, con
người cần phải biết “lấy ân báo oán”,
thông điệp mà CĐBT muốn nhắn gửi, phải chăng chỉ có thế? Đúng là sự “lấy oán báo oán”, trải rộng sân hận của Út Vũ đã dẫn đến sự tiệm
tiến đến tận cùng bi đát ở cuối truyện, nhưng nguồn cơn của bi kịch bất tận lại
thuộc về cô con gái, nhân vật người kể chuyện xưng tôi “biết tuốt” trong
truyện. Cô con gái như một thánh nhân chứng kiến, đa mang vơ vào mình tất thảy
đớn đau của kiếp nạn nhân sinh, lắng nghe, thấu hiểu, luôn đặt mình vào vị trí,
tình huống của người khác để tha thứ, cảm thông. Nhưng cô không thể tha thứ cho
chính mình - kẻ trực tiếp đẩy mẹ ra đi, để “bi
kịch chất đống lên những người ở lại”. Cái chiều định mệnh ấy, khi má hỏi “Mèn ơi, mắt con sao vậy?” (vì nhìn thấy
nước mắt không ngừng tuôn rơi trên mặt thằng Điền), giá như cô đã không cay
nghiệt “day day chậm rãi”: “Chắc tại nó nhìn thấy chuyện bậy đó, má.
Trưa nay nó ngủ kẹt bồ lúa”… với tất cả sự “hể hả” khi thấy má “chết lặng”
nhìn cô, “cái nhìn như lịm đi trên khuôn
mặt đẹp não nề” thì mọi chuyện đâu ra nông nỗi này. Giá như ngày ấy, cô có
ý thức “giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng,
giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì” thì sóng gió đã không
cồn lên bất tận như đã từng cồn lên bất tận thế kia. Mãi sau này cô vẫn cứ “không thể giải thích vì sao tôi lại hể hả”.
Vậy đó, nguồn cơn bi kịch bất tận không thuộc về người bố mà là thuộc về lời
nói sướng miệng, thuộc về cái “hể hả” một cách vô thức của cô
con gái – ngày ấy đang là một đứa trẻ con, chưa kịp ý thức được rằng, “là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của
người lớn”. Thế ra, con người đôi khi là nạn nhân của chính cái phần vô
thức trong mình, cho nên cần phải luôn biết nâng cao cảnh giác với phần chìm
vô thức đó. Kiếp nạn là kiếp người.
Sống trong đời sống cần biết triệt tiêu sân hận, bất tận hoá sân yêu.
3. Sự tha hoá của nhân sinh là bất tận
“Nếu
chủ nghĩa hiện đại thưởng tỏ ra ưu tư chán chường trước trạng thái tha hoá của
nhân sinh, thì chủ nghĩa hậu hiện đại càng dị thường hoá, ảo giác hoá sự tha
hoá đó để vừa lấy làm thú vị, vừa khiếp sợ” [5, 180].
CĐBT đã thành công trong việc mờ hoá ranh giới giữa người và vật
(vịt), người và ma, từ đó kì dị hoá, ảo
giác hoá sự tha hoá của nhân sinh, đẩy nhân vật vào sâu hơn con đường tìm
kiếm tình người.
3.1. Người bằng vịt
Đến
với CĐBT, chúng ta bắt gặp một thế
giới người mà kiếp họ đã thành kiếp nạn, họ sống không ra sống, nổi nênh, tao
tác, rệu rời như kiếp vịt, tình người nơi họ xơ vữa như những cánh đồng “trống trơn” với “mùa hạn hung hãn”, những con kinh hoặc “khô trơ lòng”, hoặc “nước đã
sắc lại thẫm một màu vàng u ám”… Rồi họ “nhảy nhót điên cuồng”, “chửi
rủa chói lói” hoà âm với “tiếng bầy
vịt tao tác kêu dưới sạp ghe”. Điều kiện sống của thế giới người nơi đây đã
đi đến chỗ cực hạn khi “những mảng đất đã dính khắn trên làn da mốc
meo”, khi họ ước làm sao trước lúc chết “được tắm một bữa đã đời”, khi có “ba nhân khẩu” trên “chiếc ghe
tơi tả” “ngang mét hai dài ba mét mốt”
đêm đêm “nằm chèo queo, co rúm, chen chúc
nhau” không có thói quen chiêm bao, khi “thịt vịt trở nên xa xỉ” với dân làng vịt…
3.2. Người thua vịt
Vịt
“cười nhạo” người.
Vịt
“nhạy cảm khủng khiếp”, có thể nghe
được “tiếng trái tim người”, trong khi đó con người bất lực trong việc nghe nhau,
kề cận bên nhau nhưng vẫn là những vũ trụ ngút ngàn cô đơn.
Thế
giới của vịt là thế giới “không ghen
tuông, hờn giận”, cái đầu chúng “chỉ
đủ cho yêu thương”. Chúng cứ thảng thốt hỏi nhau câu hỏi “thiên nan vấn”: “Vì sao tụi - người – ta lại ác?”. Mà con
người ác thật, ác đến không thể ác hơn khi có thể kéo đồng loại “lê lết hết một quãng đường xóm”, rồi “giằng xé, quăng quật”, rồi “dùng dao phay chạt mái tóc dày, dục dặc, hì
hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô”, rồi (kinh hãi thay) “đổ keo dán sắt vào cửa mình” của đồng
loại. Con người có thể “đem hết những bản
năng hoang dã của mình ra để giành lại miếng ăn”, có thể “vừa kêu rên vừa chửi bới ngậu xị” sau
khi ăn cướp giữa ban ngày, lại có thể “đè
nghiến” đứa con gái mới lớn xuống bùn rồi “thay phiên nhau” cưỡng đoạt, dí ông bố của cô ta cũng dập xuống
bùn, giữ cho mặt ông hướng về phía cô con gái từ chỗ bị “xé toạc” đến “rách nát, đau
đớn” như thể “đang chết”.
Con
người có thể vô liêm sĩ khi không một chút ngượng mồm dõng dạc nói “Làm đĩ” khi người khác hỏi “Làm nghề gì?”, có thể tỉnh bơ nói với
những đứa trẻ là mình “làm đĩ quen rồi”,
cái chuyện hồi đêm vừa ngủ với cha chúng, trưa nay đã vác thân sang chỗ hai
ngài cán bộ ấp xã để “đổi chác” chỉ
là “chuyện nhỏ”, “nhằm bà gì” mà chúng phải buồn cho mệt. Khi
“không còn mảnh vải nào trên người”
trong cuộc bán thân, trước ánh mắt thiên hạ, con người vẫn có thể “điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo thân
mình chứ không trơ ra ngượng nghịu”. Con người có thể vừa ngủ với người cha
hồi đêm, trưa lại “táo tợn” mân mê
trong nước phần bụng dưới của thằng con trai mười bảy tuổi của chính người cha
đó…
Vịt
“chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạt gẫm nhau”.
Trong khi đó con người có thể vô cùng hoan hỉ khi “mồi chài một người đàn ông vào trò chơi giường chiếu”, để sau đó
anh ta về nhà nhìn “vợ con nheo nhóc bu
quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều” còn chị ta thì đã “cuỗm” được một triệu hai trong tổng con
số hai triệu mà người đàn ông kia vừa “vay
xoá đói giảm nghèo”. Nét mặt con người “tràn
ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng”.
“Trong sự hoan lạc (của những con vịt) đầy ắp thứ gọi là tình – yêu”. “Khoảng thời gian trước khi con trống trèo
lên con mái rất thật, mềm mại, êm đềm”… Trong khi đó “nhạt nhẽo hơn cả quan hệ theo mùa, theo bản năng”, trong con người
“không còn một chút cảm xúc nào”, con
người chỉ biết “vùi mặt vào da vào thịt,
ngấu nghiến mà lòng lạnh ngắt”.
Và
không chỉ mờ hoá ranh giới giữa người
và vịt, CĐBT còn đan xen vào yếu tố mờ hoá giữa người và ma. Trong sự đối
sánh ấy, rõ ràng người thua ma. Người thì ác như không thể ác hơn. Trong khi đó
người đàn bà, con ma mà thằng Điền gặp bên “ngôi
mả lạng nằm sát đất, cỏ rời rợi xanh” hôm nào thì “thiệt hiền, chỉ đau đáu vuốt tóc nó và ánh nhìn chan chứa thương yêu”.
“Mĩ
học của chủ nghĩa hậu hiện đại cho phép con người thoải mái sinh hoạt, giao
tiếp qua những môi trường và hoàn cảnh khác nhau mà trong đời sống thực thì
không thể nào tương thông” [2, 23]. CĐBT
với việc con người chỉ có thể tìm tiếng nói tri âm nơi thế giới vịt, tìm chút
yêu thương, ve vuốt nơi thế giới ma là huyền thoại về thế giới người xơ vữa
tình người. “Sự báo ứng dường như đang ở
rất gần”.
“Nếu
trong tác phẩm hiện đại thường sử dụng những truyện cổ và thần thoại, hoặc dẫn
dụ đông tây kim cổ, hàm chứa một sự uyên bác cao sang, thì trái lại, tác phẩm
hậu hiện đại thường viết dễ dãi với những sự việc đời thường, mang xu hướng
thông tục hoá, thích ứng với xã hội tiêu dùng” [5, 181]. CĐBT không ngại khi đưa vào trang sách những cảnh đĩ đóm, kì kinh
nguyệt, chó nhảy nhau, vịt đạp mái… để qua đó nói được rất nhiều chuyện nhân
sinh.
CĐBT là truyện ngắn mà sức
chứa của nó tương đương với dung lượng của cả một cuốn tiểu thuyết. Thủ pháp u mua màu đen được sử dụng khá nhuần đã
tạo ra một cảm xúc dự báo cho ngày tận
thế. Tuy nhiên CĐBT cuốn hút sâu
sắc được mọi tầng lớp độc giả là vì có một dòng chảy của chủ nghĩa nhân văn
thao thiết trong đó, tác phẩm miêu tả cái cô đơn, đau đớn, bi đát, vật vã của
kiếp người bằng tất cả tình yêu thương con người, bằng niềm tin không tắt vào bản năng hướng thiện của con người. “CĐBT sẽ còn sống rất lâu vì nó chạm đến
những vấn đề rất sâu xa của con người” [4]./.
.............................
[1]
Jean - Francois Lyotard (2007), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch,
NXB Tri thức, Hà Nội.
[2]
Lê Huy Bắc (2005), “Truyện ngắn Hậu hiện đại”, Truyện ngắn, lí luận, tác gia và tác phẩm, Tập Hai, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3]
Đông La (2006), Chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng ở nước ta, http://vietbao.vn/Van-hoa/Chu-nghia-hau-hien-dai-va-anh-huong-o-nuoc-ta/20603117/184/,
ngày đăng: 17.8.2006.
[4]
Hà Linh (thực hiện) (2006), Chia sẻ cùng Nguyễn Ngọc Tư và "Cánh
đồng bất tận", http://vietbao.vn/Van-hoa/Chia-se-cung-Nguyen-Ngoc-Tu-va-Canh-dong-bat-tan/10952843/181/,
ngày đăng 12.4.2006.
[5]
Phương Lựu (2001), “Về chủ nghĩa Hậu hiện đại”,
Tiếp tục khơi dòng, NXB Văn học, Hà
Nội.
TỪ GÓC NHÌN LÝ THUYẾT PHÂN TÂM HỌC
1.
Thế giới nhân-vật-tính-dục-bản-nguyên
Người vợ của Út Vũ,
"người đàn bà có cái cười làm lấp lánh cả khúc sông" thường "thở
dài khi tắm, khi nước trôi dài trên làn da trắng như bông bưởi" trong
những ngày dài chồng đi chuyến. Và rồi một ngày, chị đã "oằn uốn
người" dưới tấm lưng của người đàn ông bán vải dạo. "Họ cấu víu. Vật
vã. Rên xiết".
Người đàn bà Bàu Sen,
người đàn bà bị chồng bỏ để đi theo vợ bé, "ba năm vắng bóng đàn
ông", "một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy mình"… Giữa mùa đại hạn ấy, một buổi chiều, anh thợ
mộc Út Vũ như cơn mưa rào bất chợt đến. Chiêm ngưỡng trộm cảnh Út Vũ tắm,
"nước mỏng tang tràn qua những thớ thịt đỏ au", "chị chợt giật
thót người, cài vội chiếc nút áo bung ra vì không chịu nổi đôi vú căng
tức". Chiến dịch giữ chân con mồi bắt mắt được thực hiện. Chị không để ý
gì nữa, "chị đang ưng bụng, ngây ngất tràn trề trong mắt". Rồi những
lúc "bưng nước ra", những lúc "kêu nghỉ tay ăn bánh, anh thợ
à" là "tiếng bào trượt trên ván ọt ẹt ngừng lại, buổi trưa im phắc.
Và đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo xạo lao xao lào xào".
Và "chị đĩ".
Sau chuỗi ngày bướm chán ong chường,
vẫn "cần nhiều hơn, nhiều hơn, nhiều khủng khiếp, tưởng như chị có thể
ngốn ngấu, bào mòn tất cả đàn ông trên thế gian này. Lúc đầu là kiếm sống,
nhưng lâu dần, sự chung đụng của thể xác làm chị nghiện". Ngày đầu dừng
chân nơi quán trọ Út Vũ, chị bị hớp
hồn bởi "người đàn ông đang vồng lưng trong nắng sớm", "đẹp trai
dễ sợ". Chị "tìm mọi cách để sà vào". Và rồi trong cái chòi nhỏ
trên bờ, nơi có người đàn ông tuổi tứ tuần ấy, phát ra "tiếng sột soạt rạo
rực" khi chị táo tợn tách hai đứa nhỏ cùng chiếc ghe để lên đó. Rồi
"Chị bước ra khỏi chòi, khoan khoái vươn vai. Sự ưng ý, mãn nguyện lấp lánh
trên khoé mắt. Khuôn mặt chị tràn ngập ánh sáng". "Rồi chị giành nấu
cơm. Chị xoắn tay áo lên hì hụi thổi lửa (...). Trông chị như bà vợ tảo
tần".
Đến lượt, trước
"chị đĩ", trước những đưa đẩy lả lơi đầy chủ ý của chị, bản năng tính dục nơi hai người đàn ông
cán bộ ấp xã đã bùng phát. "Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn
như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị".
Rồi trước nhân vật
"tôi", một đứa con gái mới lớn với vẻ đẹp trời phú, những người đàn
ông không ngăn nổi cái nhìn thèm khát. "Bằng mắt, họ sờ soạng khắp người
tôi. Ánh mắt giống bàn tay của ông xẩm mù mà tôi từng gặp, đụng chỗ nào cũng
dừng lại, vuốt vuốt bóp bóp (chắc là cho dễ hình dung), rồi lần dò tới một chỗ
khác, rờ nắn mê miết". Và sau cuối, lũ thằng Hận đã từ "ngỡ
ngàng" "thảng thốt" đến "lau dãi ròng rãi trên khoé
miệng" và sau cuối "ghì ngửa trên mặt ruộng bì bõm nước"
"con nhỏ đẹp quá"...
Dục
tình là một phần tất yếu của cuộc sống. Phần
chìm vô thức này như khối nham thạch luôn chờ cơ hội để trào vọt. Năng
lượng Libidô là xung năng tạo nên sự sống ở mỗi người. Nhu cầu thỏa mãn tình
dục của con người là nhu cầu rất người.
"Kiểu yêu tinh thần để nhìn nhau, để nắm tay, vuốt tóc, để nín nhịn và hy
sinh chỉ tồn tại trong văn chương". "Dục tình và xác thịt không xấu
xa, không đáng bị khinh bỉ". Tuy nhiên nếu con người cứ hồn nhiên để cái ấy (id) vô tư chiến thắng cái tôi (ego) thì hậu quả thật khôn
lường. Với người vợ Út Vũ, đó là chị
phải ra đi, "để bi kịch chất đống lên những người ở lại". Với những
người đàn ông quê mùa, đó là "mớ tiền công ít ỏi suốt một ngày làm việc
quần quật", hay "những món tiền cắm câu đêm đêm, tiền bán lúa, dừa
khô hay những buồng chuối chín", hay "một triệu hai" trong tổng
số hai triệu "vốn vay xoá đói giảm nghèo"... biến mất cùng người tình
chớp nhoáng của mình, để rồi về nhà ngậm ngùi ngồi nhìn "vợ con bu quanh
nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng chiều". Với "chị đĩ", đó
là cơn "chết lặng trong nỗi ngượng ngùng" của thằng con trai mười bảy
tuổi khi nó bị bàn tay người đàn bà trải đời "táo tợn làm gì đó" nơi
phần bụng dưới trong nước. Với những người thoáng chốc "rũ cái sột, sạch
trơn" để đi theo người tình, đó là bất tận "đau lòng người ở
lại". Với những người đàn bà đánh đổi gia đình, ruộng vườn, làng xóm, cả
đứa con nhỏ để chạy theo Út Vũ, đó là nỗi bẽ bàng bị bỏ rơi ("và cộng thêm
niềm đau vỡ của những người quây quanh họ" "thấu qua những tầng
mây"), là "con đường quay về bị bịt kín". Đối với lũ thằng Hận,
đó là tia hy vọng "le lói nhìn thấy con đường dẫn đến cuộc - sống - bình -
thường" của một đứa con gái mới lớn "chẳng phải bình thường" đã
bị dập tắt.
Tính
dục mang giá trị mỹ học và nhân văn là tính dục nhằm tôn vinh con người, khai
phóng năng lực tiềm ẩn của con người, giúp họ thức nhận đầy đủ giá trị của
mình, tận hiến và tận hưởng cuộc sống trong sự bao bọc của những cảm xúc thiêng
liêng. Con người sẽ tự nhục mạ mình khi thả lỏng theo sự sai khiến của xung động bản năng, trật xa cái trục ego mình, không biết dung hòa
giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại, biến cấu trúc nhân cách của mình thành khuyết
thiếu.
Trong
Cánh đồng bất tận, các nhân vật đã
điểm với bản năng tính dục không được
kiểm soát, tình dục ở họ không là sự
thăng hoa của tình yêu, mà chỉ hoặc là phương
tiện để đổi chác, hoặc là hành vi tìm
khoái lạc, bất chấp đạo lý, bổn phận và trách nhiệm, họ do vậy, vừa đáng
cảm thông, vừa cần được cảnh báo để rồi được thanh lọc, giải thoát.
2.
Ám ảnh tuổi thơ
Hai chị em Nương và
Điền - hai đứa trẻ vô tội, đặc biệt là Điền trong Cánh đồng bất tận, sau cuối đã phát
triển không bình thường về tâm sinh lý. Ngoài nguyên nhân là khắc khoải nỗi
mặc cảm về "sự trừng phạt", sự "báo ứng", là việc bị
"đẩy trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền miên": thiếu vật chất, thiếu
đồng loại, thiếu tình mẹ, thiếu cả tình cha dẫu có cha kề cạnh, thiếu quyền
được đến trường, phải tự học cách để lớn lên...; còn là dư chấn tất yếu của những va chấn tâm sinh lý dữ dội buổi thiếu thời
- những va chấn bởi những cảnh tượng,
những âm thanh, những niềm mà chúng
bất đắc dĩ phải nhìn thấy, nghe thấy, và nghĩ. Đó là cảnh tượng "trên
chiếc giường tre quen thuộc, má oằn uốn người dưới tấm lưng chơm chởm những nốt
ruồi. Họ cấu víu. Vật vã. Rên xiết". Đó là cảnh những đôi người "khi
không còn mảnh vải nào trên người họ vẫn điềm nhiên cười khúc khích và uốn éo
thân mình" mà tối nào mua ruợu cho cha, chúng cũng ngang qua. Đó là
"tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ" khi "chị
đĩ" lên chòi cùng cha. Đó là "đống dăm bào bị dẫm tạo ra âm thanh lạo
xạo lao xao lào xào" khi người đàn bà Bàu Sen bị chồng bỏ ở chỗ cha làm
mộc. Đó là niềm "cay đắng" với cảm giác cha "quắp lấy"
những người đàn bà "vùi mặt vào da vào thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh
ngắt", “cha làm chuyện đó thì
cũng giống như mấy con vịt đạp mái…”, thậm chí "nhạt nhẽo hơn cả việc quan
hệ theo mùa, theo bản năng, trong cha không còn một chút cảm xúc nào, nét mặt
tràn ngập những rắp tâm, chưa gặp mặt đã tính chuyện phụ phàng"...
Và thế là hai đứa trẻ
từ lúc nào đã trở nên "kỳ dị, đến mức nhiều khi tự giật mình". Chúng
"quái dị" "chẳng phải những đứa trẻ bình thường". Cái gì
đến nhất định phải đến. Một ngày "thằng Điền nổi loạn". Dấu hiệu bắt
đầu từ một bữa trong xóm đê, tình cờ ngó đôi chó nhảy nhau, thằng Điền "cầm đoạn cây xông đến quất đôi chó
tới tấp". "Hai con chó kêu la thống thiết, hoảng loạn, xà quần trong
đám bụi đất. Đau đớn cùng cực, chúng rúc vào chân đống rơm, nhưng không chịu
rời nhau. Con đực phục đầu sát đất, rên rỉ, nước dãi chảy ròng. Không chạy hả.
Bốp. Không chạy nè. Bốp. Thằng Điền gào lên. Cây trúc giập nát. Tôi giữ tay
Điền lại bảo, “Ác với tụi nó chi vậy, cưng”, thấy nước mắt bê bết trên mặt em
tôi". "Dục tình và xác thịt không xấu xa, không đáng bị khinh
bỉ" nhưng đã bị Điền khinh bỉ, ghê tởm, coi đó là nguồn cơn của mọi bi
kịch, của sóng gió đã cồn lên bất tận với chị em nó. Rồi "Điền chối bỏ
niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó tự kìm hãm bản năng trỗi
dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận dữ, căm thù. Nó phản
kháng bằng cách trút sạch những gì cha tôi có, cha tôi làm. Giãy dụa đến rã rời, nhiều bữa, nó dầm mình dưới ao đến khi
người tái nhợt. Nó chạy như điên trong đêm, trên những bờ ruộng mướt cỏ đến khi
mỏi nhừ, gục xuống. Rồi nằm xoãi trên đồng, tả tơi". "Điền mười sáu
tuổi đã lạnh ngắt. Nó dửng dưng nhìn những đứa con gái làm cỏ lúa, quần xoắn
cao, đùi non mởn. Đôi lúc bắt gặp những đôi người quấn nhau giữa các chòi ruộng
hay lùm cây, nó khinh khỉnh cười khào"...
Một nhân cách phát
triển bình thường là nhân cách biết dung hòa, điều tiết giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tại. Ngược lại với những
nhân vật tính dục đã điểm ở trên,
Điền, do oằn mình đau đớn vì gánh ám ảnh, nên đã một mình đi về phía cực đoan
khác, đó là hòng lấy nguyên tắc thực tại
áp chế, triệt tiêu nguyên tắc khoái lạc,
thay vì sở hữu thứ bản năng có sức tái sinh là nỗ lực tự hủy hoại để nhận về
mình bản năng chết.
3. Nhân vật Điền với
"mặc cảm Ơđíp" và "mặc cảm tàn phế"
Mẹ bỏ đi, bố bỏ mặc,
Điền cùng chị gái như cây hoang tự gồng mình về phía ánh sáng mặt trời để cầm
cự. "Chị đĩ" xuất hiện, rồi mặc dù đã là người của cha, nhưng bao
nhiêu tình yêu của một đứa con giành cho mẹ vẫn được Điền dốc hết cho chị. Mười
bảy tuổi, Điền yêu "chị đĩ" bằng tình yêu vô điều kiện. "Điền có
những ngày bối rối. Nó hay hỏi tôi, “người ta thương mẹ ra làm sao?”. Mặt nó
dãn ra, khi biết cây kẹp tóc, trái dừa tươi hay con cá thác lác… mà nó dành cho
chị cũng giống hệt như người ta vẫn thường cho mẹ. Và niềm nhớ lúc đi xa, nỗi
khao khát được nằm gần, được dụi mũi mình vào da thịt người đó… cũng tự nhiên
như ý nghĩ bình thường nhất của những đứa con". Vào cái đêm phát ra
"tiếng sột soạt rạo rực trong cái chòi nhỏ trên bờ" khi "chị
đĩ" tách khỏi ghe lên chòi cùng cha, "Điền đã mệt mỏi thiếp đi, nó
nằm co quắp, hai tay kẹp giữa đùi, mặt buồn như phủ một lớp sương giá".
Rồi chứng kiến cảnh chị bị cha làm nhục bằng cách trả tiền vụ hồi đêm, sợ chị buồn, Điền đã cùng Nương rủ chị đi câu. Suốt
buổi, không dính con cá nào, Điền đã làm chị vui bằng cách "lặng bắt con
cá rô lội xuống mương, lặn sâu, móc cá vô lưỡi câu của chị".
"Điền đuổi theo
chị, và chị thì chạy theo cha".
Không chỉ mang mặc cảm Ơđíp, như một hệ quả tất yếu đã
phân tích ở trên, Điền còn mang cả mặc
cảm tàn phế nữa. "Điền yêu chị, nhưng tình yêu đó khiếm khuyết mất
rồi. Sau giấc ngủ dài, bản năng nó đã không trở dậy. Trái tim nó chỉ là hòn
than nhỏ, không thể hâm nóng lại cơ thể ngả màu tro. Sợi dây xúc cảm như lối đi
lâu lắm không người lui tới, cỏ dại mọc bít mất, đường đứt, cầu gãy...".
Cái buổi trưa khi bàn tay của chị "táo tợn làm gì đó" nơi phần bụng
dưới của nó trong nước, Điền, thằng con trai mười bảy tuổi đã "chết lặng
trong nỗi ngượng ngùng". Đây là cái "chết lặng trong nỗi ngượng
ngùng" của một chàng trai mới lớn mang mặc
cảm tàn phế trước người đàn bà mình yêu thương.
4. Những giấc mơ
Theo Freud, chẳng có
giấc mơ nào không có nghĩa. Giấc mơ là thấu kính soi chiếu đời sống tâm sinh lý
của con người. "Một bữa tôi chiêm bao, chẳng đầu chẳng cuối gì, chỉ thấy
vía má giãy dụa trong tấm vải đỏ lạ lùng kia nhưng nó thít chặt, riết lấy, siết
dần cho tới khi má thành một con bướm nhỏ, chấp chới bay về phía mặt
trời". Giấc mơ này của cô bé Nương nói
được cái sự cô bị ám bởi sự "xa
lạ" của má, cùng nỗi bất an, phấp phỏng, hoang sợ, niềm linh cảm, dự cảm
của cô về cơ nguy mất má, cơ nguy má cô sẽ bỏ cha con cô để ra đi cùng ông chủ
của những "tấm vải đỏ lạ lùng" "đỏ hơn cả máu" mà bà đã bị ám.
Ngày cô gái có kỳ kinh
nguyệt đầu tiên. "Máu chảy giữa hai đùi không tạnh được, tôi thụp xuống,
bụm chỗ ấy lại. Máu từ từ chảy
qua kẽ tay, tôi thấy mình rỗng ra, tái nhợt, chết dần. Thằng Điền vói bứt đọt
chuối, tọng vào miệng nhai ngốn ngấu, điên dại, để lấy bã rịt lại chỗ máu.
Thuốc gò nghe nói cầm máu rất tốt, cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc,
tôi đã mơ thấy ngôi mộ của mình, như chiếc giường giữa bốn bề đồng
nước...". Giấc mơ này tường minh cơn hoảng loạn, niềm tủi cực tột cùng của
một cô gái bị tước quyền được bình thường,
nỗi mặc cảm về cái án bất tận bi đát,
tuyệt đối trống rỗng, vô nghĩa của cô giữa kiếp nạn nhân sinh; tường minh cái
trạng thái thường trực lưỡng phân mê - tỉnh, vô thức - hữu thức, sống - chết,
tồn tại - không tồn tại; tường minh sự xuất hiện ở một kiểu dạng khác thứ bản năng chết (nếu ở Điền là nỗ lực tự hủy hoại như đã nói, thì đến
lượt, ở Nương là mong muốn được chết);
tường minh cái điềm báo về thảm họa bị lũ thằng Hận "ghì ngửa",
"xé toạc" giữa cánh đồng bì bõm nước...
"Nằm chèo queo, co
rúm, chen chúc nhau trên sạp ghe, chúng tôi đánh mất thói quen chiêm bao. Điều
này làm tôi và Điền buồn biết bao nhiêu, vì cách duy nhất để được nhìn lại hình
bóng má cũng tan rồi". Việc "đánh mất thói quen chiêm bao" của
hai đứa trẻ đồng nghĩa với sự "quái dị" "kì dị" "không
phải bình thường" theo tháng năm của chúng, đồng nghĩa với sự "nghèo
rơi nghèo rớt" bởi bị "đẩy trượt dài vào nỗi thiếu thốn triền
miên", không quá khứ, không hiện tại, không tương lai của chúng.
Cánh đồng bất tận, thông qua miêu tả những ám ảnh tuổi thơ, mặc cảm tàn phế, những giấc mơ... nói
trên, ám ảnh, đắng xót linh hồn người đọc bởi những đứa trẻ chết già (từ dùng của Nguyễn Bình Phương) trong sự đày đọa, bỏ rơi
do thói vô trách nhiệm, u tối bản năng của
người lớn.
Cảm quan phân tâm học
đã chi phối cái nhìn nghệ thuật của Cánh
đồng bất tận, nhất quán từ nội dung đến hình thức. Tác phẩm tỏ ra khá nhuần
trong kiến tạo cấu trúc tự sự giàu dữ kiện phân tâm. Cốt truyện, thời gian tâm
lý lấn lướt, phân rã, nhòe mờ cốt truyện, thời gian sự kiện. Thủ pháp gián ghép điện ảnh những mảnh vụn, những
phiến đoạn ký ức đứt gãy của nhân vật, đẩy nhân vật trượt vào, tan chảy trong
dòng xúc cảm hỗn độn giữa quá khứ và hiện tại và tương lai, giữa tâm cảnh và
ngoại cảnh. Ngôn ngữ tâm trạng, ngôn ngữ cảm giác lấn lướt, chồng quyện ngôn
ngữ miêu tả. Sự độc dụng điểm nhìn bên trong, để nhân vật tự cảm nghiệm, tự nói bằng ngôn ngữ hoặc của khoái lạc,
hoặc của niềm đau vỡ... Và bao trùm lên tất cả, đó là một không khí truyện
"ẩn chứa bên trong sự dồn nén cái sức mạnh của bộc phá" (Đoàn Ánh
Dương) - sức mạnh của khát vọng thành
thực.
Cánh đồng bất tận, thông qua cái nhìn phân tâm học, đã miêu tả
nỗi cô đơn, khát thèm, bẽ bàng, bi đát, sự tha hóa của con người bằng tất cả tình yêu thương, sự cảm thông và thiện chí
cảnh báo, phản tỉnh con người. Đọc Cánh
đồng bất tận, chúng ta thêm cơ hội nhận diện đầy đủ tính hiện đại của văn
học Việt Nam, nhận diện hành trình tư tưởng văn học là hành trình con người từ
trạng thái Trời về trạng thái Người, từ quần thể về cá thể. Vang ngân niềm khắc
khoải thiết tha của tác giả, rằng trên hành trình ấy, con người hãy nỗ lực bảo
vệ, chắt chiu, gìn giữ những giá trị Người. Cánh
đồng bất tận sẽ sống rất lâu vì nó chạm đến miền sâu nhất, khuất nhất,
người nhất của con người./.
TỪ GÓC NHÌN LÝ THUYẾT NỮ QUYỀN LUẬN
1. Khúc bi ca
về thân kiếp đàn bà
Đến với Cánh đồng bất tận, ta bắt gặp những
người đàn bà mà kiếp họ là kiếp nạn. Họ nổi nênh, cô đơn, nhục tủi, bi đát
trong một thế giới đói nghèo, tăm tối với những cánh đồng “trống trơn” giữa
“mùa hạn hung hãn”, những con kinh hoặc “khô trơ lòng”, hoặc “nước đã sắc lại
thẫm một màu vàng u ám”…
Đó là người má của hai
đứa trẻ Nương và Điền với "tiếng thở thườn thượt, nghe buồn mênh mông,
chảy từng giọt như nước mắt". Chị thở dài những lúc ngồi vá những bộ
quần áo cũ, những lúc "tay bối rối nắn vào hai túi áo mỏng kẹp lép".
Trước mỗi chuyến đi mới của chồng, chị lại hỏi câu hỏi con trẻ: “Đi chuyến này
nữa là đủ tiền mua ti vi màu, phải hôn anh?”. Chị cùng những người đàn bà lam
lũ quê mùa ngày ngày trông ngóng chiếc ghe của người đàn ông bán vải dạo.
"Tất cả họ đều trở thành trẻ thơ khi bước chân lên ghe, họ tíu tít, háo
hức, họ thèm muốn đến bồn chồn rồi dùng dằng trở lên bờ với tâm trạng tiếc
nuối, ngậm ngùi, thấy mình già khi ngang qua bồ lúa vừa hớt bớt một lỏm, thằng
cha bán vải lấy mấy giạ mà như khứa một ít tuổi xuân đi. Cả đời, cái bồ lúa
luôn làm lòng họ đau đáu, khi nghĩ tới bệnh tật, chuyện cất lại cái nhà, hay
dựng vợ gả chồng cho con cái"...
Đó là những người đàn
bà trước khi đến với Út Vũ chưa một ngày được làm vợ đúng nghĩa. Bởi những ông
chồng "thích uống say", "thích dùng tay chân để tỏ rõ uy
quyền", "có khi cả đời, không nói với phụ nữ một câu yêu thương tử
tế. Họ không biết vuốt ve, âu yếm, khi cần, họ lật cạch người phụ nữ ra và thoả
mãn, rồi quay lưng ngủ khò"...
Đó
là người đàn bà Bàu Sen bị chồng bỏ để chạy theo nhân tình trẻ. Rát tê trước sự
thay lòng, "chị te tái cắp nón đi suốt, tìm ông thầy này, bà cốt kia, để
thỉnh bùa chú cho ông chồng quay lại". Kết quả là chồng chị "bỏ ngay
cô nhân tình này và trớ trêu, anh ta chạy theo… cô khác. Ba mùa lúa rồi chị ra
đồng một mình. Một mình nuôi con. Một mình nhìn gương, tự ve vuốt và yêu lấy
mình…". Và những tưởng số phận đã mang an ủi chị người đàn ông khác, nào
ngờ… Chị cứ "buộc mình tin rằng sự chọn lựa (rất nhanh, mặt tở mở và rạng
rỡ, gần như không suy nghĩ gì) của mình là đúng, tình yêu của mình xứng đáng
được đánh đổi. Xóm làng, ngôi nhà, vườn tược trôi tuột lại phía sau. Và đứa con
gái”. Nhưng than ôi, ngày vui ngắn chẳng
tày gang, chị bị người đàn ông (tưởng) của mình bỏ lại, khi vừa đi được một
đoạn đường...
Đó là những người đàn
bà sau này của Út Vũ, những con thiêu thân khác tự nguyện lao vào anh ta. Với
họ, Út Vũ "tính toán rất vừa vặn, sao cho vừa đủ yêu, vừa đủ đau, vừa đủ
bẽ bàng, và bỏ rơi họ đúng lúc". "Có người vừa bán xong cái quán nhỏ
của mình. Có người vừa nói xong những lời dứt tình với chồng con. Có người vừa
phũ phàng chia xong gia sản, có cô gái sắp về nhà chồng, củi to củi nhỏ chất
thành giàn ngoài chái... Hết thảy đều cun cút tin và yêu". Anh ta mang họ
đi một quãng đường rồi hắt họ lên bờ. "Con đường quay về bị bịt kín".
Nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị Út Vũ bỏ rơi ("và cộng thêm niềm đau
vỡ của những người quây quanh họ") "đã thấu qua những tầng
mây"...
Đó là người đàn bà can
tội "làm đĩ" bị đồng loại trừng trị theo kiểu kinh dị thời trung cổ.
"Môi chị sưng vểu ra, xanh dờn. Và tay, và chân, và dưới cái áo mà tôi đã
đắp cho là một cái áo khác đã bị xé tả tơi phơi những mảng thịt người ta cấu
nhéo tím ngắt". "Và những chân tóc trên đầu chị cũng đang tụ máu.
Người ta đã lòn tay, ngoay chúng để kéo chị lê lết hết một quãng đường xóm,
trước khi dừng chân một chút ở nhà máy chà gạo. Họ giằng ném, họ quăng quật chị
trên cái nền vương vãi trấu (...) Họ dùng chân đá vói vào cái thân xác tả tơi
kia bằng vẻ hằn học, hả hê (...) Họ dùng dao phay chạt mái tóc dày kia, dục
dặc, hì hục như phạt một nắm cỏ cứng và khô". Và, kinh hãi thay,
"người ta đã đổ keo dán sắt vào cửa
mình của chị…"... Và rồi chị đã gặp Út Vũ cùng hai đứa trẻ. Trước
sức quyến rũ của người đàn ông tứ tuần, trước tình yêu thương, sự quyến luyến
của hai đứa nhỏ thiếu mẹ, chị đã "cun cút tin và yêu", cun cút hướng
thiện. Những tưởng sẽ có riêng bến bờ để neo đậu thuyền em rách nát, nhưng không ngờ… "Cha đưa chị một ít tiền
ngay trong bữa cơm, khi nhà đủ mặt, “Tôi trả cho hồi hôm…”. Rồi cha điềm nhiên
phủi đít đủng đỉnh đứng lên, sự khinh miệt và đắc thắng no nê trong mắt".
Và tiếp theo là giấc ngủ cùng tiếng thở "sao mà đều, sao mà thơ thới"
của người tưởng đã là của mình khi chị làm phép thử mang thân đi "đổi
chác'' với hai ngài cán bộ ấp xã. Sau cuối, chị tan nát “quay đi. Chân vướng
dấp dúi vào cỏ. Con đường nhỏ dầm chan trong màu hoa mua tím”, tím như nỗi ê
chề bẽ bàng của chị - người tưởng chừng bao
quản lấm đầu kiếp thân lươn...
Đó là "rất nhiều
người phụ nữ giống chị" "chớm tàn tạ, đói rã ruột ở thị thành mới
chạy xuống quê, cất cái quán nhỏ, giả đò buôn bán bánh kẹo lặt vặt, thực chất
là làm nghề". "Cứ mỗi
mùa gặt, họ lại dập dìu trên đê, lượn lờ quanh lều của những thợ gặt, những
người đàn ông giữ lúa và bọn nuôi vịt chạy đồng. Họ cố làm ra vẻ trẻ trung,
tươi tắn nhưng mặt và cổ đã nhão, nhìn kỹ phát ứa nước mắt. Đêm đến, sau các
đụn lúa, họ thả tiếng cười chút chít, tiếng thở mơn man… lên trời, làm nhiều
người đàn bà đang cắm cúi nấu cơm, cho con bú trong lều thắt lòng lại"...
Đó là những người đàn
bà cùng bầy con "nheo nhóc bu quanh nồi khoai luộc trong nhập nhoạng nắng
chiều" giữa khi người đàn ông của họ dốc kiệt túi tiền để mua cơn hoan lạc
ngắn ngủi nơi những người đàn bà thị thành cùng đường xuống quê "làm
nghề"...
Đó là Nương cùng những
cô gái mới lớn mà sắc đẹp trời phú cũng chẳng biết để làm gì. "Ở cái xó
quê này, có đẹp mai mốt cũng phải lấy chồng, đẻ một bầy con nheo nhóc, cũng ra
ruộng ra vườn làm lụng đến hết đời, xẹp lép như xác ve". Mà "suốt
những tháng năm sống tù đọng trên đồng, tôi có biết ai ngoài những người đàn
ông quê mùa cũ kỹ. Tôi biết lấy ai trong số đó? Lấy một người cắm mặt xuống
đất, mệt nhừ với vườn ruộng để mỗi khi giáp hạt, tôi nghe tiếng cạo cháy của
con, tiếng muổng dừa vét gạo dưới đáy thạp mà rát bỏng trong lòng? Hay tôi sẽ
chọn một người chăn vịt, mê mỏi với chuyến đi xa, sống cuộc sống hờ hững tạm
bợ, thấp thỏm với rủi ro, và đến một lúc nào, tôi ôm con nghe đêm của mùa gặt
thật dài với tiếng rúc rích của chồng cùng cô điếm già nua. Tôi lấy ai bây giờ,
một người thợ gặt? Một anh chạy đò? (...) Tôi không chắc mình có đủ kiên nhẫn
sống cuộc sống nghèo túng, nhàm chán ấy suốt đời, hay nửa chừng bỏ dở"...
Không đủ kiên nhẫn sống
cuộc sống nghèo túng, nhàm chán suốt đời là tâm-thế-sống chung của thế giới đàn
bà trong Cánh đồng bất tận, làm nên
âm-hưởng-nữ-quyền chủ đạo của tác phẩm. Người vợ Út Vũ không cam chịu tình
trạng hai túi áo quanh năm "mỏng kẹp lép". Những người đàn bà quê mùa
khác không cam chịu cảnh những ông chồng "thích uống say, thích dùng tay
chân để tỏ rõ uy quyền", cả đời "không biết nói một câu yêu thương,
một lời tử tế", khi cần thì "lật cạch" mình ra thỏa mãn
"rồi quay lưng ngủ khò". Những người đàn bà thành thị không cam chịu
cảnh đói rũ, chấp nhận xuống quê "làm nghề", cái tín điều đói sạch rách thơm hóa vớ vẩn. Người đàn
bà Bàu Sen không cam chịu cảnh thiếu đàn ông...
Họ không việc gì phải tỏ ra biết
thân biết phận. "Chị đĩ" sau khi bị đánh ghen tả tơi bầm dập,
được cứu vớt, vẫn bộc lộ nhu cầu chính đáng là được tắm nơi nước không phải nổi
váng phèn, vẫn "tìm mọi cách để sà vào" người đàn ông tuổi tứ tuần có
"khuôn mặt chữ điền ngời ngợi", "đẹp trai dễ sợ" để dừng bước giang hồ, neo đậu thuyền em rách nát mà hướng thiện. Khi
ai đó hỏi "Làm nghề gì", chị dõng dạc trả lời "Làm đĩ" như
thách thức, như tuyên chiến...
Thế giới đàn bà trong Cánh đồng bất tận là thế giới của những
người phận bạc. Họ đã không vô
minh tự rán mình bằng vạc lệ mà biết chủ động cựa quậy bứt phá đổi đời
nhưng hỡi ôi, bi kịch của họ gỡ ra rồi
lại buộc vào như chơi, họ "thoát vũng lầy này lại sa vào vũng lầy
khác".
2. Khúc tụng ca nhân
vật nữ chính tận thiện tận mỹ
Khi "chị đĩ"
bị đám người dốc hết bản năng hoang rợ của mình để "trừng phạt" thì
cô bé Nương đã "háo hức thấy mình nghĩa hiệp như Lục Vân Tiên",
"lồm cồm xô ghe dạt khỏi bờ, sợ hãi và sung sướng", "cầm sào
chống thục mạng ra giữa sông, mắt không rời đám người đang tràn ra mé bờ chực
lao xuống, nhảy nhót điên cuồng". Rồi "bò vào trong ghe, lấy áo đắp
lên người chị, sao cho che được đôi vú rách bươm và khoảng đùi rướm máu".
Nương mang trong mình
trái tim non run rẩy trắc ẩn, run rẩy yêu thương. Run rẩy trắc ẩn ngay cả với
những con vịt vô tội bị chôn sống, "chúng đau đớn vì những cái cổ gãy, rối
quặt quẹo". Một ngày trong chuỗi đời du mục, Nương đã nghe câu nói của một
người con trai: “ước làm sao trước lúc má tui chết, bà được tắm một bữa đã
đời”; câu nói này làm Nương "thương anh ta quá chừng". Hay Nương đã
run rẩy trắc ẩn trước câu nói của chị đĩ “Mắc cười quá, tới mấy con cá quỷ này
còn chê chị”: "Câu nói nghe tỉnh bơ, bâng quơ mà tủi vô phương".
Nương và Điền kể câu - chuyện - của - chúng "để chị không phải ray rứt gì
với thân phận làm đĩ". Khi
chị bị cha cự tuyệt, Nương "hối hận vì đã cứu chị và mang chị đi
cùng"; Nương cảm giác mình "nắm tay kéo chị lên khỏi một vũng lầy để
đẩy chị vào một vũng khác, cũng sâu". Nương "chực khóc" khi thấy
chị dường như "đang chết" vì không thể ngờ người đàn ông (tưởng đã
là) của mình lại có thể "thơ thới" ngủ khi mình cố tình mang thân đi
"đổi chác". Nương "đắng đót thầm trong lòng một cái vẫy
tay" khi chị tan nát quay đi.
Nương biết đặt mình vào
người đàn bà Bàu Sen để cùng chị trải nghiệm nỗi bất an, phấp phỏng, "thấy
hơi lo khi cha sắp hoàn thành chiếc tủ áo cuối cùng''; run rẩy trắc ẩn khi thấy
chị "ủ ê, suốt buổi giằm đũa vào chén cơm nguội ngắt"; "bất giác
ứa nước mắt" khi thấy chị gật đầu với tất cả vẻ "tở mở và rạng rỡ,
gần như không suy nghĩ gì" trước lời mời đi theo cùng đầy "rắp
tâm" của cha. Bằng trải nghiệm bi kịch của chị em mình, Nương run rẩy trắc
ẩn trước đứa con nhỏ bị chị bỏ lại: "Cuối cùng, chị đưa nhỏ con về chơi
bên ngoại, và trong lòng chị em tôi bùi ngùi tiễn nó đi như đưa tiễn một cuộc
đời. Mai nó vẫn sống, nhưng mà sống khác". Nương run rẩy trắc ẩn trước cái
"thảng thốt" của chị khi vừa đi được một đoạn đường bất giác bị cha
bỏ lại. Nương ''thắt thẻo" "mỗi lần cha nhìn đăm đắm và mỉm cười với
một người đàn bà mới", muốn ngăn "nhưng không cách nào ngăn
được". Nương "đắng đót" khi cảm giác cha quắp lấy người ta,
"vùi mặt vào da vào thịt, ngấu nghiến mà lòng cha lạnh ngắt". Trái
tim non của Nương nát vỡ vì "nỗi bẽ bàng của những người đàn bà bị cha bỏ
rơi (và cộng thêm niềm đau vỡ của những người quây quanh họ) đã thấu qua những
tầng mây".
Nương thương những
người đàn bà, thương luôn cả cha. Khi thực hiện thành công việc bỏ rơi người đàn
bà cốt để cho chị ta "nếm thử niềm đau" như mình đang gặm một khối,
cha cười; "Chị em chúng tôi mãi mãi không quên cái cười đó, nó vừa dữ dội,
đau đớn, hoang dã, cay đắng, nghiệt ngã. Cái cười thật dài, riết lấy khuôn mặt
cha, làm mắt cha hơi lồi ra, ánh lên như có nước". Thương cha vì thấu
triệt tâm can cha, thấu tận cùng con người thật của cha. Nương "đắng
đót" khi cha trút lớp áo tuồng (sau màn vui gượng khi có mấy đồng loại
thăm chòi) thì chỉ còn lại là "xanh xao, lạnh lẽo đến ngơ ngác và cô
đơn". Nương nhìn thấu "đằng sau khuôn mặt chữ điền ngời ngợi"
của cha là "nỗi đau sâu hoắm", là "một hố sâu đen thẳm, bến bờ
mờ mịt, chơi vơi, dễ hụt chân", là "vết thương cũ mở miệng toang
hoác, không da thịt nào có thể lấp đầy".
Với Điền, Nương không
chỉ dốc hết tình cảm của một người chị mà còn như thể dốc thay tình cảm của một
người mẹ. Nương đã chăm sóc Điền bằng tất cả thiên tính nữ của mình: "Hay
tại tôi ngồi bắt chí cho thằng Điền? Hay tại tôi càng lớn càng giống má? Có
bữa, nửa đêm thằng Điền thức giấc, nhìn thấy tôi day lưng lại lui cui vá áo, nó
thảng thốt kêu “Má ơi!”".
Giàu trắc ẩn, giàu yêu
thương, Nương còn là một cô gái mới lớn rất đỗi xinh đẹp. Đẹp đến nỗi Điền phải
thốt lên: "Đẹp làm chi dữ vậy, Hai?". Đẹp đến nỗi "đám thanh
niên lúc nào cũng kiếm cớ lảng vảng" khiến Điền phải khuyến cáo: "Anh
kia, lượm con mắt lên, anh nhìn vậy, chị tôi mòn còn gì". Đẹp đến nỗi lũ
thằng Hận trầm trồ "Con nhỏ đẹp quá" trước khi thực hành cái bản năng
hoang rợ của mình.
Đau đớn thay phận đàn bà. Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
thân em như tấm lụa đào nhưng phận sao phận
bạc như vôi… Những khúc than thân, khúc phản kháng kiểu này tưởng đã là
chuyện của ngày xửa ngày xưa nhưng tận những năm đầu thế kỷ XXI vẫn cứ vang
ngân khắc khoải hôi hổi tính thời sự. Từ góc nhìn nữ quyền luận, chúng ta thêm
nhận diện đầy đủ tính hiện đại của Cánh
đồng bất tận./.