Giáo viên Ngữ văn cần tăng cường vốn ngôn
ngữ Hán Việt,
đặc
biệt là thành ngữ - cách ngôn gốc Hán.
H.Trưởng - Hoàng Đình Bường
Như chúng ta đã
biết, ngôn ngữ tiếng Việt được cấu thành bởi rất nhiều từ gốc Hán đọc theo âm Hán
Việt. Mặc dù hầu hết đã được Việt hoá, đễ hiểu, thông dụng nhưng vần còn một bộ
phận cần được làm rõ nghĩa. Đó là chưa kể phần văn học chữ Hán tồn tại trong tiến
trình văn học Việt Nam.
Giáo viên phải có vốn từ ngữ Hán Việt cần thiết để đáp ứng với yêu cầu giảng dạy
và giao tiếp. Như vậy việc tăng cường vốn từ Hán Việt đối với giáo viên Ngữ văn
là điều tất yếu.
Yêu
cầu trên đối với giáo viên Ngữ văn không mấy khó khăn nhưng nếu không quan tâm
thì sẽ dẫn đến hiểu lơ mơ, đại khái, kém hiệu quả trong giảng dạy. 5 năm không
trực tiếp lên lớp, những vấn đề sau đây nêu ra có thể chưa được lý giải thoả đáng
nhưng tôi vẫn mạnh dạn trao đổi mong giúp được một điều gì đó có ích cho CBGV dù
rất nhỏ. Trong khuôn khổ bài viết mang tính chất trao đổi, gợi ý, tôi xin nêu vài
ví dụ và một cách tiếp cận làm giàu vốn từ ngữ gốc Hán, chủ yếu là thành ngữ -
cách ngôn.
Truyện
Kiều, một kiệt tác văn học đồng thời cũng là một kiệt tác ngôn ngữ. Người ta ca
ngợi, say mê đọc Kiều, ngâm Kiều, vịnh Kiều…một phần cũng vì điều đó. Cái hay của
truyện Kiều về mặt ngôn ngữ thuần Việt ai cũng thừa nhận. Nhưng không dừng lại ở
đó, trong truyện Kiều còn có cái hay ở những câu thơ có gốc gác ở những bài thơ
chữ Hán, những điển tích, điển cố Trung Quốc.
-
Sông Tương một dải nông sờ
Bên
trông đầu nọ, bên chờ cuối kia
-
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa
đào năm ngoái còn cười gió đông.
Đọc
2 câu thơ trên, nếu chúng ta không có vốn Hán ngữ và không chịu khó tra cứu nguồn
gốc văn bản thì chỉ phân tích trên bề mặt câu chữ mà Nguyễn Du đã viết. Vấn đề đặt
ra cho giáo viên ngữ văn không phải dừng lại ở đó mà phải làm rõ lai lịch câu
thơ và hiểu thấu đáo gốc gác của nó qua bản chữ Hán:
-
Quân tại Tương giang đầu
Thiếp
tại Tương giang vĩ
Tương
tư bất tương kiến
Đồng
ẩm Tương giang thuỷ
-
Khứ niên kim nhật thử môn trung
Nhân
diện đào hoa tương ánh hồng
Nhân
diện bất tri hà xứ khứ
Đào
hoa y cựu tiếu đông phong
Đến
đây, có thể khẳng định rằng vốn Hán ngữ rất cần thiết đối với giáo viên ngữ văn
trong việc giảng dạy thơ văn chữ Hán và văn học cổ Việt Nam.
Lại nói về tác
phẩm văn học cổ. Chinh phụ ngâm là một tác phẩm văn học nguyên bản chữ Hán của Đặng
Trần Côn do Đoàn Thị Điểm dịch. Tác phẩm dài, chúng ta không có điều kiện để
nghiên cứu tất cả. Ở đây chỉ xin nêu ra một đoạn ở phần đầu tác phẩm:
-
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách
má hồng nhiều nỗi truân chuyên
…sứ
trời sớm giục đường mây
Phép
công là trọng niềm tây sá gì.
Bản
dịch như trên được đánh giá là tuyệt hay xưa nay ai cũng chấp nhận. Nhưng nếu
chúng ta không soi chiếu với gốc bản chữ Hán của Đặng Trần Côn thì chưa thấy hếttoàn vẹn giá trị của tác phẩm qua phần mở đầu.
Trong nguyên bản bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn viết:
Thiên địa
phong trần
Hồng nhan đa
truân
Du du bỉ thương
hề thuỳ tạo nhân
Cổ bề thanh động
Trường An nguyệt
Phong hoả ảnh
chiếu Cam Toàn vân
Cửu trùng án
kiếm khởi dương tịch
Bán dạ phi hịch
truyền tướng quân
Thanh bình tam
bách niên thiên hạ
Tòng thử nhung
y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên
môn thôi hữu phát
Hành nhân trọng
pháp khinh ly biệt
Rõ ràng, nếu không
có vốn Hán ngữ, chúng ta khó có thể giảng dạy tốt bộ phận văn học cổ liên quan đến
vấn đề chữ Hán. Không chỉ trong văn học, ở cuộc sống đời thường chữ Hán vẫn còn
tồn tại ở các dạng thức thành ngữ - cách ngôn. Gần gũi nhất là trong nhà trường,
chẳng hạn như hai câu :
- Tiên học lễ,
hậu học văn
- Tôn sư trọng
đạo.
Về đại thể, ai
cũng có thể hiểu được nội dung hai câu trên nhưng hiểu tường tận, nắm chắc gốc
gác nguyên văn chữ Hán thì không phải ai cũng biết. Một lần nữa lại phải cần giáo
viên ngữ văn. Có nhiều cách học, sau đây tôi chỉ nêu ra một cách mà bản thân mình
đã áp dụng qua nhiều năm và đến bây giờ vẫn thấy có giá trị.
Trước hết phải
chịu khó tìm tòi, tra cứu và tập hợp các từ Hán Việt đồng thời nghiên cứu kỹ các
văn bản chữ Hán qua bản dịch nghĩa và thơ văn để có được một cái nhìn tổng quát
về yêu cầu của một giáo viên đối với việc nghiên cứu học tập nâng cao trình độ
Hán ngữ. Bước tiếp theo là tìm cách thu thập, sắp xếp, giải nghĩa các thành ngữ
- cách ngôn gốc Hán theo vần a,b,c xếp thành những đoạn có vần điệu na ná như
thơ theo kiểu các cụ ngày xưa học chữ Hán:
Thiên - TrờiTôn - Cháu
Địa - ĐấtLục - Sáu
Cử - CấtTam – Ba
Tồn – CònGia – Nhà
Tử - ConQuốc - Nước
Theo cách như
vậy, ta xếp các thành ngữ - cách ngôn gốc
Hán có 2 chữ cái mở đầu là a và b như sau:
Các thành ngữ
bắt đầu từ chữ aCác
thành ngữ bắt đầu từ chữ b
Ái ốc cập ôBài binh bố trận
Anh hùng mạt lộBiệt vô âm tín
Án binh bất độngBách tuế vi kỳ
Lạc nghiệp an
cưBách xuyên quy hải
An bần lạc đạoBất cộng đái thiên
Ác giã ác báoBách niên giai lão
Cứ thế, ngày này
qua ngày khác, năm nọ sang năm kia, bằng sự bền bĩ dẻo dai, chúng ta sẽ có một
vốn liếng Hán ngữ cần thiết cho việc giảng dạy và gia tiếp trong cuộc sống.