Chiến tranh đi qua một vùng đất ...
02-10-2012
CHIẾN
TRANH ĐI QUA MỘT VÙNG ĐẤT, MỘT VÙNG VĂN HÓA
(Tham
luận tại Hội thảo “Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ
của nhà văn Hữu Phương” tổ chức tại Trường Đại học Quảng Bình ngày 22.9.2012)
HOÀNG ĐĂNG KHOA
1. Không gian nghệ thuật của Chân
trời mùa hạ là một không gian đậm chất sử thi. Đó là xã Đại Hòa, một
miền quê nơi đất lửa Quảng Bình, dải đất tựa như cái eo lưng của người mẹ Việt.
Nơi đây là cửa ngõ của mặt trận, là bàn đạp của cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước
của dân tộc Việt Nam
ở thế kỷ 20. “Hậu phương đấy. Và cũng tiền tuyến đấy”. “Những mạch đường đi qua
đây như eo thắt cổ chai, dày đặc hơn, chảy xiết hơn, hối hả và gấp gáp hơn.
Không có chuyến xe nào ra mặt trận không đi qua đây. Và không có bước chân
người lính nào đi vào chiến trường không in dấu ở mảnh đất này. Đêm đêm, xe và
người rộn rịch. Vũ khí và lương thực. Đạn dược và thuốc men. Xe thồ và vai vác.
Bộ đội và thanh niên xung phong. Đàn ông và đàn bà. Quân vào và cáng thương ra.
Tiếng cười và tiếng hát. Bom nổ và lửa cháy. Máu và bùn. Đạn túa lên trời và
bom rơi xuống đất. Tiếng thét và tiếng rên. Tiếng giảng bài và tiếng trẻ sơ
sinh. Trên mặt đất và trong lòng đất. Mùi thơm hoa rừng và mùi khét diêm
sinh…”.
2. Để có được tác phẩm thành công về đề
tài chiến tranh cách mạng, nhà tiểu thuyết không chỉ vào vai nhà lịch sử miêu
tả chiến tranh đơn thuần, mà còn phải là một nhà văn hóa khám phá cuộc sống
chiến tranh trong những vỉa tầng sâu, xa của nó. Trong Chân trời mùa hạ, Hữu
Phương không chỉ tái kiến tạo qui mô sử thi về cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc, mà còn phát lộ các giá trị văn hóa – lịch sử, các giá trị tinh thần
nhân văn trầm tích ngàn đời, được phát tiết, thăng hoa trong cuộc sống chiến
đấu và lao động sản xuất của một vùng đất, một vùng văn hóa. Hiện thực chiến
tranh trong Chân trời mùa hạ không chỉ gồm những diễn biến cụ thể, hết sức
phức tạp, đa dạng trong tiếng máy bay gầm rít điên loạn, tiếng bom đạn réo sôi…,
nghĩa là tất cả những gì ta nhìn thấy, nghe thấy, mà còn bao gồm cả những âm
hưởng, vẻ đẹp độc đáo và nhịp điệu tinh thần của con người và của cuộc sống
trong chiến tranh, nghĩa là những gì ta cảm thấy. Sự nghiệp giữ nước của dân tộc đã được tạo dựng bằng cả chiều sâu
văn hóa. Đây là một hướng đào sâu, tìm tòi đáng kể của Hữu Phương.
Chiến thắng của một Việt Nam đất không
rộng, người không đông trước một kẻ địch hùng mạnh với vũ khí hiện đại bậc nhất
thế giới đến từ bên kia đại dương là đế quốc Mỹ, đến bây giờ vẫn là một niềm
kinh ngạc đối với cả thế giới. Cái linh khí, hồn thiêng núi sông xứ sở, cái
huyền bí của đất và người Việt Nam
là nguồn sức mạnh vô hình vô song đã góp phần đắc lực làm nên chiến thắng. Cái
luận đề này một lần nữa được Hữu Phương khẳng định trong Chân trời mùa hạ. Cuốn
tiểu thuyết đã đưa người đọc thám hiểm không gian đất và người Quảng Bình trong
cuộc sống chiến tranh để cảm nhận cái thần diệu của dải đất này và của những
con người xứ sở này, cái dải đất và những con người mà địch không thể nào hiểu
nổi. Thế đất nơi đây hiểm trở, địa hình địa vật cùng với con người hợp đồng tác
chiến, người nơi đây cực kỳ thông minh, tinh nhạy, tính toán như thần. Họ thuộc
lòng những ngón võ mà địch sẽ tung ra. Họ tương kế tựu kế, bí mật đón chờ. Kẻ
địch ngờ rằng, cứ ném bom đánh sập những chiếc cầu, cắt đứt những con đường
lớn, là đối phương như bị chặt tay chặt chân, không đưa người và vũ khí vào Nam
được nữa. Chúng không lường được rằng, “những con đường giao liên như những sợi
chỉ ngoằn ngoèo, tỏa ra rồi chập lại ở một nút nào đó, rồi lại tỏa ra, len
lách, luồn lũi; như những mạch máu cơ thể, dẫn quanh quất dưới những tán cây,
những chân đồi, qua những xóm làng, những khe suối, những chiếc cầu gỗ bắc dã
chiến, qua những bến đò ẩn dọc mép sông; có chỗ lại chập lại, nhập với một đoạn
quốc lộ nham nhở, meo mốc; có chỗ nhập với một đoạn đường hỏa xa mọc trùm cây
dại”. Cùng với mạng đường giao liên cực kỳ biến hóa, một hệ thống đường ô tô
thoắt ẩn thoắt hiện qua những ngầm đá, qua những bến phà, qua những sườn đèo đỏ
loét hố bom, và có khi lẩn vào những cánh rừng bạt ngàn cao su, cà phê hay
thông nhựa và cả những cánh rừng đại ngàn thâm u. Những con đường gần như không
cố định; hôm nay có thể đi qua đỉnh đồi này, nhưng ngày mai đã xẻ xuống mép đồi
kia. Có khi vài tuần, vài tháng lại quay về lối cũ, thậm chí lại chạy ngay trên
quốc lộ thênh thang rải nhựa mà kẻ địch ít ngờ tới. “Nghĩa là, cuộc chiến giữa
những người đi trên mặt đất với đội quân thiện chiến của quân lực Hoa Kỳ ở trên
trời, xét theo phương diện nào đó, cứ như trò chơi ú tim. Máy bay đánh ban ngày
thì xe đi ban đêm. Máy bay đánh ban đêm thì xe đi ban ngày. Chúng đánh về sáng
thì xe đi đầu hôm. Chúng đánh đầu hôm thì xe đi về sáng. Chúng đánh cả ngày lẫn
đêm thì xe đi cả đêm lẫn ngày”. Lũ giặc lái của Mỹ điên tiết đổ không biết bao
nhiêu bom đạn xuống ngầm Chánh Hòa, nhưng cái ngầm vẫn trơ lỳ những rọ đá xếp
kè chắc chắn. Và đêm đêm, dòng sông xe vẫn lầm lũi ra trận qua ngầm này. Khi
trời rạng sáng thì tất cả đâu vào đấy, xe đã ở những điểm giấu an toàn, lái xe
mắc võng ngủ, để lại con đường và ngầm đá lặng im như chưa bao giờ có chuyện gì
xảy ra, như chưa có đêm đêm hàng đoàn người, xe nườm nượp ra trận. Những đêm
tối trời, để xe không bị rơi xuống vực hay xuống các hố bom, các cô gái làm
đường chỉ còn cách xắn cao quần, đứng cách nhau mỗi người một quãng. Và những
cặp chân trắng ngần thiếu nữ của họ thành hàng cọc tiêu dẫn xe lên. “Đấy, những
con đường chuyển quân của ta như thế đấy, kẻ địch làm sao hiểu nổi?”. “Mưu cao
của những con người nơi đây, kẻ địch làm sao có thể lường hết được?”. “Có lẽ
trên thế giới này, không có nơi nào con đường ra trận lại gan góc và lãng mạn
như ở nơi này”…
Chiến tranh và thiên tai đã dạy cho
những con người xứ sở nhỏ hẹp và gió cát này biết tìm ra quy luật để tồn tại và
chiến đấu. Ông trời luôn vào hùa với thằng địch luôn dốc sức làm dữ, hết bão
lụt ùng ục cuồng réo đến gió lào dội những thác lửa hầm hập bỏng rát lên mọi
nơi, thổi rào rạt ngày đêm không ngớt. Trời thử lòng người. Cái khó ló cái
khôn. Dân Đại Hòa đã đi qua những năm đói khó, nói đúng hơn là đã đi qua những
năm tháng nhịn phần lương thực của mình cho mặt trận, bằng trăm nghìn phương
cách khác nhau. Ai cũng hiểu rằng, phải tranh cướp thời gian với kẻ địch. Ai
cũng khẩn trương mà bình tĩnh, hối hả mà cẩn trọng. Cho nên, cứ thấy bom đạn
liên miên, bom đạn đầy trời, mà cuộc sống vẫn sinh sôi. “Bên cạnh hố bom dày
đặc của trọng điểm chết, những ruộng lúa vẫn được cấy tự bao giờ. Rồi mùa màng
lên xanh, rồi lúa chín được gặt hái tự khi nào. Đêm trước quả bom tấn đào một
hố sâu, nước rỉ ra thành một giếng trời, hôm sau đã thấy họ hàng nhà ếch nhái,
ễnh ương kéo nhau về đẻ những bọc trứng nổi màng trên mặt nước. Ít ngày sau đã
thấy ai đó cắm những gốc môn bạc hà quanh mép nước. Không chừng tháng sau trở
lại đã thấy rau muống bò mặt nước và khoai lang phủ kín bờ”. “Cánh đồng đất
trũng phơi trong gió lào bốc lửa nằm ven quốc lộ, ven đường hỏa xa, ngay cả
trọng điểm bom Chánh Hòa, lại biến thành cánh đồng xanh từ khi nào”. Sau một
ngày náo động vì cuộc mưu sinh truyền kiếp con người và vì bom đạn quân thù tàn
phá, xóm mạc nhà nhà lại lên khói bếp; cảnh yên bình trở lại như thể chưa có
chiến tranh vừa đi qua mấy phút trước đó. Sức hủy diệt man dã của kẻ địch không
thể thắng được cái sức sinh tồn cường tráng của con người nơi đây.
Đọc Chân trời mùa hạ, cứ đầy lên trong
chúng ta cái nội lực sống gân guốc, vạm vỡ của người Quảng Bình trong cuộc
chiến. Họ như những cây xương rồng cứ nở hoa trên cát bỏng, như những vườn chè Đại
Hòa cứ sinh sôi, xanh tốt giừa trời đại hạn. Đó là một ông giáo Duẩn về hưu đức
độ, mực thước với mái tóc sớm muối tiêu, khuôn mặt khắc khổ, sống cuộc sống tằn
tiện, căn cơ, cùi cụi một mình, vò võ dõi theo đứa con độc nhất, niềm hy vọng
và nơi tựa đỡ cuối cùng của đời ông. Đó là một bà Mày với bàn tay gân guốc, đôi
tay khô gầy như nhánh củi, khuôn mặt răn reo rám nắng. Thượng đế cướp trắng
nhan sắc và hạnh phúc của bà, bù lại cho bà một sức khỏe và phẩm hạnh ít ai
bằng. Tuồng như trời sinh ra bà để cứu giúp người khác, vì người khác. Đó là bác Niệm, bí thư đảng ủy xã mẫn cán,
dũng cảm và gan lỳ, lấy sinh mệnh của cánh đồng Đại Hòa làm lẽ sống, “với chiếc
xắc cốt bằng vải bạt vỗ vỗ bên hông”, luôn đau đáu vì đời sống của hàng ngàn hộ
xã viên, và quan trọng hơn là lương thực đóng góp cho mặt trận. Đó là thằng
Tiệng với thân hình đen nhẻm, gầy guộc và mái tóc vàng hoe vì nắng gió, mới mười
lăm tuổi đã nằng nặc đòi đi bộ đội; mừng húm, sướng nhảy cỡng lên khi sở nguyện
được chấp nhận. Rồi nó dần thành liên lạc xã. Đêm hôm tối tăm, hay giữa lúc bom
rơi đạn nổ, có công việc là nó lao đi. Đó là Thiện, là Cẩm, những thanh niên đã
không chọn con đường vào đại học, vào chốn yên hàn, xa lánh được hòn tên mũi
đạn, hứa hẹn tương lai tươi sáng mà đã tình nguyện ở lại vùng đất ác liệt nơi
cửa ngõ mặt trận này. Đó là chị Loan, là Phong, là Kiên, là Thuận, là Xuyến, là
Phượng, là những chàng trai cô gái có tên và không tên đã tận hiến tuổi trẻ của
mình cho công cuộc chiến đấu và lao động sản xuất nơi mảnh đất này. Những cặp
môi thanh tân của họ cứ khát cháy nụ hôn. Mặc cuộc chiến tàn khốc, mặc lam lũ
đời thường, bất chấp thời gian nắng chan bom dội, những mối tình thanh khiết cứ
đằm thắm trung trinh (mối tình giữa bác Niệm và bà Thiệp, mối tình giữa Thiện
và Cẩm…). Những con người xứ sở này mang một vẻ đẹp khỏe khoắn và rực rỡ, một
vẻ đẹp vừa mang chất phồn thực của người nông dân chất phác, vừa cao khiết của
thánh thần. Chính những tấm lòng nông dân thơm thảo và thuần hậu của những con
người dũng cảm và mưu trí, bao dung và độ lượng, cô đơn và mất mát, run rẩy trắc
ẩn đa mang, tràn ngập tình cảm làng quê lối xóm, đau đáu với đồng đất quê
hương, đã làm nên kì tích trong cuộc chiến tàn khốc này.
3. Hiện thực mà Chân trời mùa hạ dấn thân
chiếm lĩnh không phải là cuộc chiến ta thắng địch thua mà là số phận cộng đồng,
số phận và vấn đề của những cá nhân con người một vùng đất, hiện thân của dân
tộc trong cuộc chiến. Nhà tiểu thuyết Hữu Phương đã cố gắng nhìn thẳng vào bản
chất của chiến tranh để viết về nó, gọi theo cách của nhà nghiên cứu Nguyễn
Thanh Tú thì đó là “cái nhìn bi kịch hóa”. Chân trời mùa hạ day dứt, ám ảnh, đắng
xót linh hồn người đọc bởi thân phận của những con người trong chiến tranh,
nhất là thân phận những người phụ nữ, những người đã phải hứng chịu quá nhiều
đau thương, quá nhiều mất mát. Đó là những phận gái đang tuổi ăn tuổi ngủ phải
xông pha nơi hòn tên mũi đạn. “Họ gần như không ngơi tay. Có đêm vừa mới ngả
lưng đã lại nghe tiếng súng báo hiệu đường bị trúng bom, hay xe bị cháy”. “Không
còn thời gian nhớ nhà, không còn kịp thương cha nhớ mạ ở quê thắt lưng buộc
bụng, ăn đói mặc rét, rau cỏ qua ngày, nhường lương thực chuyển ra mặt trận”. Đó
là những người phụ nữ có chồng ra chiến trường, sống vò võ một mình ở hậu
phương với biết bao khao khát, bao cám dỗ và cạm bẫy. Họ “thèm khát được vuốt
ve, chiều chuộng; khát khao dâng hiến và ban tặng. Họ đã trót có được cái đó
đôi ba lần, có người dăm bữa nửa tháng, rồi chồng ra đi biền biệt. Thế là, họ
một mình vác trên lưng cây thánh giá đức hạnh của “lòng chung thủy”, của “vợ bộ
đội” đi hết thời con gái, đi hết tuổi trung niên, có khi đi trọn cả kiếp
người”. Vọng ngân trong tác phẩm cái âm
hưởng nữ quyền đắng đót nhân bản: “Cuộc đời tươi đẹp của người đàn bà là
cái gì, nếu không phải phấn đấu để có những phút giây kỳ diệu, tuyệt vời ấy?
Liệu chồng chị có trở về, để chị khi còn trẻ được hưởng những ngày tươi đẹp?
Nếu anh không trở về, hoặc trở về khi chị chỉ còn là sự nhăn nhúm của một bà
già khô héo? Lúc đó chẳng phải đã phí cuộc đời tươi đẹp của một phụ nữ lúc tràn
trề thanh xuân đó sao?”.
Hữu Phương đã thành công khi xây dựng
được những không gian cực kì căng thẳng, ngột ngạt đúng với tính chất khốc liệt
của cuộc chiến cùng một không gian bi thương với hình ảnh của những cái chết.
Nói như người anh hùng liệt sỹ Đặng Thùy Trâm thì không ở nơi đâu như trong
cuộc chiến này, “cái chết dễ dàng hơn ăn một bữa cơm”. Chiến tranh đã cướp đi
bao nhiêu đầu xanh tuổi trẻ. Mất mát, đau thương tê điếng khiến những người may
mắn sống sót không thể nào khóc được. Cái giá chiến thắng mà dân tộc ta phải
đổi là quá lớn.
Chiến tranh đã đẩy ông Duẩn, một người
bố chồng khả kính, người mà cả xã Đại Hòa bao năm lấy làm tấm gương soi mình
trong đạo đức và lối sống, đã bị sa ngã trong ô nhục, phải trốn chui trốn lủi
khỏi làng đi tìm cái chết. Chiến tranh đã đẩy Hòa, một người “vợ bộ đội” đã
không làm chủ được bản năng, buông thả cây thánh giá đức hạnh, ra tay làm điều
ác với người bố chồng tội nghiệp, để rồi phải đau đớn, tủi hổ và mặc cảm tội
lỗi dày vò ngày đêm. Chiến tranh cũng đẩy Sơn, một người chỉ đam mê trò chơi
săn bắt và xác thịt thành một bộ đội, rồi một bí thư đảng ủy xã bất đắc dĩ,
sống kiếp của một “Xuân tóc đỏ” rồi sau cuối lãnh cái kết cục bi đát.
Hữu Phương đã nghiêng về việc lấy số
phận con người để dựng lại sự kiện lịch sử. Đây là một cách nhìn thẳng nói thật
vừa nhằm đề cao, tri ân sâu sắc những con người đã dầm mình trong chiến tranh
để làm nên chiến thắng, vừa nhằm cảm thông cho mọi lỡ lầm, sa ngã của những con
người không chiến thắng được bản thân và hoàn cảnh. Với việc đi sâu vào phương
diện thân phận những con người trong chiến tranh, bi tráng hóa cảm hứng anh
hùng nguyên khối như trước đây, đặt ra vấn đề nhân quyền nói chung, nữ
quyền nói riêng, Chân trời mùa hạ đã mang một tầm tư
tưởng, tầm nhân văn cần thiết.
4.
Chân trời mùa hạ đã cá thể hóa nhân vật bằng cách phối
trộn không gian sử thi và không gian đời thường. Nhân vật đã được tiếp cận ở
nhiều góc độ, nhiều tư cách, vị thế khác nhau. Ở không gian đời tư, nhân vật đã
được chú ý đến đời sống nội tâm với những diễn biến phức tạp. Phần bản năng,
phần tâm thức tâm linh được khai thác khá kỹ. Nhãn quan phân tâm học làm cho cuốn tiểu thuyết mang màu sắc hiện đại. Tính
cách từng nhân vật hiện ra chân thực, sinh động, riêng khác, trộn không lẫn. Chỗ
thành công này cũng đồng thời bộc lộ điểm hạn chế của tác phẩm. Bởi lúc nào, ở
đâu thì nhân vật của Hữu Phương cũng tuyệt đối nhất quán, được nhìn nhận theo một
chiều tốt – xấu, trắng – đen. Thiện, Cẩm thì tận thiện tận mĩ. Sơn thì ranh ma
trong máu thịt, khôn ngoan và láu cá, ngọt ngào và man trá, cơ hội và liều
lĩnh, hãnh tiến và đê tiện. Người đọc hôm nay luôn tỏ ra hoài nghi với kiểu nhân vật luận đề truyền thống này, họ
thích nhà văn trả nhân vật về với bản chất con người đúng nghĩa của nó, nghĩa
là nhân vật phải đa diện, đa tính cách. Người đọc hôm nay không thích cái bằng
phẳng đơn giản một chiều mà thích cái gồ ghề phức tạp đa chiều. Một vài chi
tiết Hữu Phương đem gán cho nhân vật hơi thiếu cái lô gích biện chứng. Ví dụ, Hòa,
một người tốt lại có thể lựa chọn điều ác một cách có chủ ý; hay, ông Duẩn mô
phạm, lý trí là thế lại có thể dễ dàng, chóng vánh sập bẫy con dâu. Rồi hai
trường đoạn hơi kịch, hơi cải lương, một miêu tả cái cách ông Duẩn tìm cái
chết, và một miêu tả cái cách Thiện và Sơn giải quyết ân oán dưới nước.
Chân trời mùa hạ với tham vọng là một “đại tự sự” kép:
vừa về cuộc chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, vừa về cơn giãy
chết của mô hình hợp tác xã ở nông thôn Việt Nam, thông qua lát cắt là xã Đại
Hòa khoảng thời gian từ Tết Mậu Thân 1968 cho đến sau ngày đất nước toàn thắng.
Cuốn tiểu thuyết dày dặn nỗ lực phác thảo một bức tranh đầy đặn, sáng rõ, do
vậy nó thiếu chiều sâu của một “kết cấu vẫy gọi”, tức là thiếu những “điểm
trắng”, “điểm chưa xác định”, giành phần cho mỗi người đọc tự có cách lấp đầy
của riêng mình. Hữu Phương là thế hệ sống trọn vẹn trong bối cảnh đất nước có
chiến tranh cho nên về cơ bản, chiến tranh trong tác phẩm vẫn đang được nhìn ở
cự ly cũ, được tái hiện theo quán tính của dòng văn học đề tài chiến tranh cách
mạng. Sự “đào sâu, tìm tòi, khơi nguồn chưa ai khơi” chưa đủ độ phá cách. Người
đọc muốn tác giả đa trị hóa nghệ thuật tự sự, đa trị hóa cái nhìn về cuộc chiến,
để tác phẩm trở nên hiện đại hơn, đa tầng, đa giác hơn, và về phương diện tư
tưởng, nó hàm chứa nhiều yếu tố bất ngờ hơn, những yếu tố có khả năng nới rộng
nhận thức của người đọc về bản chất của chiến tranh.
5. Chân trời mùa hạ là một nỗ lực rất đáng ghi nhận của nhà
văn Hữu Phương. Tác phẩm góp phần làm phong phú, đa sắc thêm dòng văn xuôi Việt
Nam
về đề tài người lính, chiến tranh cách mạng, đề tài “tam nông”. Hữu Phương chỉ
viết về làng xã nhỏ bé của mình mà tác phẩm đến được với nhiều người đọc bởi cái
tình yêu và niềm tự hào về quê hương xứ sở cứ đầy lên qua từng con chữ. Nhà văn
thuộc như lòng bàn tay nết đất nết người với tất cả khe suối, ngọn cỏ, chất
đất, thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, ẩm thực, nếp ăn nếp nghĩ… của một vùng
đất, một vùng văn hóa. Chân trời mùa hạ do vậy được viết bằng bút pháp của hứng khởi,
uyển chuyển và tự tin với một văn phong trong sáng và thông tuệ.
H.Đ.K
(*)
Tiểu thuyết Chân trời mùa hạ
của nhà văn Hữu Phương do NXB Quân đội nhân dân ấn hành năm 2011. Tác phẩm đã
đoạt Giải B cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ 3 (2006-2010)
kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội; đồng thời đoạt Cúp Bông lúa vàng của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho tác phẩm xuất sắc về đề tài nông nghiệp
nông thôn nông dân Việt Nam giai đoạn 1981-2011.