Câu thơ “MưỜng Lát hoa vỀ trong đêm hơi”
và viỆc lỰa chỌn cách hiỂu
Hoàng Đăng Khoa
Tây Tiến của Quang Dũng ra đời năm 1948, được lưu
truyền rộng rãi trong bộ đội và cán bộ ở thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần ấu trĩ của một số người trong giới
văn học, nên bài thơ bị coi là những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn anh hùng
kiểu cũ, do đó ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì đổi mới, trong xu hướng nhận
thức lại các giá trị văn học, Tây Tiến mới được khôi phục và khẳng
định vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học dân tộc, và được đưa vào nhà
trường, gây niềm khoái thú đặc biệt đối với người dạy và người học. Tuy vậy,
hơn hai mươi năm qua, GV và HS càng say mê đi sâu khám phá vẻ đẹp của thi
phẩm bao nhiêu thì càng băn khoăn, lúng túng bấy nhiêu trước việc đề xuất,
lựa chọn cách hiểu thỏa đáng trước một vài hình ảnh thơ lạ, độc đáo trong
bài, như “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” chẳng hạn.
Bài thơ Tây Tiến thuộc
chương trình môn Ngữ văn 12. Tài liệu tham khảo có “tính pháp lý” nhất đối
với người dạy văn ở nhà trường phổ thông là cuốn SGV. Nhưng đáng nói là từ
khi Tây Tiến được chọn đưa vào chương trình SGK đến nay, khi hướng dẫn
soạn giảng bài thơ, các nhà biên soạn SGV không hiểu vô tình hay cố ý đều đã
“bỏ qua” những câu thơ hay, đẹp, lạ, độc đáo và... hơi khó hiểu như câu “Mường
Lát hoa về trong đêm hơi”. Những tài liệu tham khảo khác cũng rất ít cuốn
dừng lại bàn về câu thơ đã dẫn. Trước những bài viết về Tây Tiến có
bàn đến câu thơ này thì người dạy cần phải thận trọng để đi đến một cách hiểu
thoả đáng, từ đó mới có thể định hướng cho HS trong việc “cảm” và “hiểu” câu
thơ.
Trên Văn học và tuổi trẻ (Tập
bốn mươi bảy, năm 2000, trong bài viết Tây Tiến - đôi điều hiểu lại, trang
47), Đào Tiến Thi đã “tạm đưa ra cách hiểu lại” câu thơ đã dẫn như thế này: “Nhà
thơ Trần Lê Văn từng băn khoăn, không biết đêm nhẹ như hơi hay đêm mờ hơi
sương và hoa chợt thấy trong ánh đuốc rừng hay hoa của ai đón đợi bộ đội mãi
đêm khuya. Chúng tôi nghĩ đó là hoa trong giấc
mơ. Nó phù hợp với “đêm hơi” (hơi thở trong đêm). Giấc mơ hoa – giấc mơ chiến
thắng lộng lẫy cờ hoa đón chào, làm tan đi nỗi
mỏi mệt do lam sơn chướng khí nơi rừng thiêng nước độc gây nên”.
Thiết nghĩ, trong những cách
hiểu về câu thơ đã dẫn thì cái “cách hiểu lại” mà ông Đào Tiến Thi “tạm đưa
ra” là... nghèo sức thuyết phục hơn cả, là cách hiểu cần phải được “hiểu lại”
hơn cả!
Người viết bài này rất lấy
làm tâm đắc với cách hiểu của nhà phê bình Văn Giá về câu thơ trên nói riêng
và những câu thơ tương tự trong Tây Tiến nói chung, và nhân đây, muốn
được giới thiệu, cung cấp cách hiểu này đến các bạn đồng nghiệp, như là sẻ
chia niềm hạnh phúc được gặp một tài liệu tham khảo quý trong đời dạy Văn:
“Tây Tiến cũng kể, tả. Nhưng Quang Dũng đã đưa tất cả nội dung kể, tả vào
một trạng thái hồi nhớ chơi vơi theo kiểu ấn tượng chủ nghĩa, thành ra các
câu thơ thoát ra khỏi sự tả thực liệt kê thật thà để bay vào chân trời tâm
tưởng đạt tới độ mờ sâu của nó. Nói theo cách nói quen thuộc: “ý ở ngoài lời”
là như vậy. Có thể nói trong Tây Tiến không có một câu nào kể tả một
cách cụ thể, xác định mà toàn là những ấn tượng bao chụp mờ tỏ đi ra từ tâm
linh tác giả. Chẳng hạn những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông, Mường Hịch, Mai Châu, Viên Chăn, Châu Mộc, Sầm Nưa... vốn có ý nghĩa
địa lý xác định, nhưng khi đi vào bài thơ chúng không nhằm trỏ nơi chốn sự
kiện hành động xảy ra, mà nhằm thực hiện hai chức năng quan trọng: tạo ra
những cái tên lạ tai, rất rừng rú, xa xôi, và bao chụp một không gian Tây
Tiến rộng lớn, thăm thẳm, bí mật – cái bí mật của đại ngàn. Vâng, hùng vĩ,
hiểm nguy và bí mật, đó là ấn tượng rõ rệt nhất mà đoạn thơ đầu mang lại.
Hình ảnh một “đoàn quân mỏi” im phăng phắc trong “sương lấp” nhạt
nhoà, rồi hình ảnh những loài hoa rừng không
tên cũng lại nhoà nhạt trong một “đêm hơi” sương
mờ bảng lảng, một đỉnh đèo trong mây ngột thở
bởi sự hiểm trở, tiếng thác “gầm thét”, tiếng cọp
“trêu người”, ... các hình ảnh đầy tính tạo hình táo bạo, mãnh liệt,
được phủ một lớp hồi ức bảng lảng làm cho các đường nét nhoè mờ, chứa nhiều
rung cảm.” (Trần Hoà Bình, Lê Di, Văn Giá, Bình văn, NXB Giáo dục,
Hà Nội, tr.71-72).
Vâng, có thể nói, sự góp mặt
của những câu chữ có độ nhoè mờ với những khoảng trống vô ngôn tạo ra những hình
ảnh thơ lạ, độc đáo kiểu như “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, như “Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi”, như “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, như
“Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, như “Nhạc về Viên Chăn xây hồn
thơ”... đã góp phần quan trọng làm cho thi phẩm Tây Tiến đi cùng
năm tháng, gây khoái thú, làm mê hoặc khách thơ nhiều thế hệ. Những câu thơ
này không phải là những câu thơ bí hiểm, tắc tị, nhưng chúng lại không chấp
nhận những cách hiểu áp đặt chủ quan, suy diễn gò ép hiện thực. Hiện thực
được phản ánh ở đây là thứ hiện thực được khúc xạ qua lăng kính một tâm hồn
thơ lãng mạn đang trong “trạng thái hồi nhớ chơi vơi”, mặc hồn ngụp lặn trong
thế giới tưởng tượng bay bổng và cảm xúc mãnh liệt. Trước mỗi chi tiết, hình
ảnh thơ “nhoè mờ”, cần có cách hiểu hợp lý. Nghĩa là, hiểu và giải thích
không phải và không thể bằng cái thao tác áp đặt, gò ép hiện thực vào trong
chi tiết, hình ảnh thơ đó, làm mất vẻ đẹp hư huyền vốn có của nó.
Việc tham khảo cách hiểu,
lựa chọn, đi đến một cách hiểu thoả đáng để có thể định hướng, giúp HS hiểu
một cách thoả đáng về một chi tiết, hình ảnh nghệ thuật gây tranh cãi là một
việc không đơn giản. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực, vào tâm
huyết, vào bản lĩnh của mỗi GV.
H.Đ.K
|
|