Vài trao đổi về cuốn Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên
cứu và giảng dạy(*)
(hay
Góp lời bàn về thơ cách tân đương đại)
Hoàng
Đăng Khoa
Văn học Việt Nam từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ
đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp,
lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học
Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu
cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn
diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những
công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.
Cuốn sách tập hợp những bài viết của nhiều
tác giả tên tuổi, về những vấn đề nổi cộm của văn học Việt Nam sau 1975, từ lý
luận, nghiên cứu đến sáng tác, tiếp nhận - phê bình với những cách tiếp cận,
những góc nhìn đa dạng, nhiều phát hiện và đánh giá mới, cả trên phương diện
tổng quát cũng như trên những vấn đề và sự kiện văn học cụ thể được dư luận đặc
biệt quan tâm.
Có
thể khẳng định, đây là một cuốn sách quý, chất lượng, đặc biệt hữu ích cho việc
nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam sau 1975 trong nhà trường, từ phổ thông đến
đại học. Những ai quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề liên quan đến văn học
Việt Nam sau 1975 đều có thể tìm gặp trong cuốn sách này nhiều gợi mở quý báu,
ít nhất là về mặt phương pháp luận.
Tuy nhiên, đây đó trong một số ít bài
viết, có luận điểm, cách diễn đạt chưa thật sự làm bằng lòng người đọc khó
tính.
Trong bài: "Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam giai đoạn
từ sau 1975", tác giả PGS.TS. Nguyễn Văn Long khi bàn về sự đổi mới và
những đặc điểm của thể loại thơ, sau khi cho rằng thơ từ sau 1975 "xuất
hiện nhiều dạng thức mới của cái tôi", đó là "cái tôi thế sự với
những cảm xúc khác, những nỗi buồn, sự lo âu, tâm trạng xót xa, day dứt trước
hiện trạng xã hội, nhân thế", đó là cái tôi "đào xới tận cùng bản thể",
cái tôi "được khai thác ở mọi bình diện, tầng bậc, trong mọi mối quan hệ",
đã viết: "Trong những xu hướng hiện
đại chủ nghĩa, lại xuất hiện quan niệm khác về cái tôi, về chủ thể. Khi đề cao
lối viết tự động, quan niệm "làm thơ là làm chữ", cái tôi cũng bị xóa
mờ đi, để vai trò của chữ nổi bật lên và các chữ trong bài thơ như là tự nó tạo
ra mọi tác động đến độc giả" (tr.24).
Theo tôi, viết như vậy là chưa thỏa
đáng.
Thứ nhất, ở đây, Nguyễn Văn Long đã
"hẹp hóa" nội hàm của khái niệm cái tôi. Cái tôi, trong sáng tạo thơ
nói riêng, ngoài nghĩa là cái tôi nội cảm, trĩu nặng cảm xúc, sâu thẳm nỗi niềm,
tự phơi trải, còn được hiểu là phong cách cá nhân, là cá tính sáng tạo đơn
nhất, không lặp lại của chủ thể. Nếu hiểu cái tôi theo nghĩa đầy đủ này thì khi
đề cao lối viết tự động, quan niệm "làm thơ là làm chữ", cái tôi
không thể bị xóa mờ đi như Nguyễn Văn Long nói, ngược lại, cái tôi với nghĩa là
phong cách, là cá tính sáng tạo lại càng được tô đậm, khắc dấu hơn bao giờ hết.
Văn chương, sản phẩm của sáng tạo, một trong những giá trị đích thực của nó là sự khác biệt. Một khi đã quan niệm
"làm thơ là làm chữ", là "lao động chữ", nhà thơ là
"phu chữ" thì người "phu chữ" kia sáng tạo ra cái gì nếu
không phải là những chữ mới lạ, khác biệt, mà sáng tạo ra những chữ mới lạ,
khác biệt kia để làm gì nếu không phải là để khẳng định phong cách, cá tính
sáng tạo, khẳng định cái tôi nghệ sỹ của mình?
Thứ hai, nếu ta tạm chấp nhận cách hiểu
theo nghĩa không đầy đủ của Nguyễn Văn Long, rằng cái tôi chỉ là cái tôi nội
cảm thì liệu khi đề cao lối viết tự động, quan niệm "làm thơ là làm
chữ", cái tôi (nội cảm) này có bị "xóa mờ đi, để vai trò của chữ nổi
bật lên và các chữ trong bài thơ như là tự nó tạo ra mọi tác động đến độc
giả" hay không? Thơ bao giờ cũng đi ra từ cái tôi sâu thẳm, là sự ngân
rung của một trạng huống cảm xúc đặc biệt của thi sỹ. Và chữ chính là trạng huống
cảm xúc đặc biệt ấy được tượng hình, vật
chất hóa. Chữ chỉ có thể nổi bật lên vai trò của mình và tự nó tạo ra mọi
tác động đến độc giả khi và chỉ khi nó thấm đẫm, trĩu nặng cảm xúc, tư tưởng
của chủ thể sáng tạo ra nó, chứ hoàn toàn không thể khi nó rỗng nghĩa, vô cảm,
vô hồn. Một khi "phu chữ" có thể "làm chữ" được như thế thì
cái tôi không phải bị xóa mờ đi, mà cái tôi (nội cảm) lúc này đã lặn sâu vào
chữ, làm cho chữ cựa quậy trên chiều "năng nghĩa" (chữ dùng của Dương
Tường), sản sinh, tái tạo nghĩa không ngừng.
Thứ ba, không thể đồng nhất "quan
niệm làm thơ là làm chữ" với việc "đề cao lối viết tự động"
được. Hai vấn đề này tự nó đã mâu thuẫn với nhau. Một khi đã chủ trương viết tự
động thì sao lại quan niệm làm thơ là "làm chữ", là "lao động
chữ", sao lại gọi nhà thơ là "phu chữ"? Theo tôi, nói "viết
tự động" là nói chuyện nội dung, nghĩa là quan niệm, thơ không chỉ là sản
phẩm của ý thức, lý trí mà có khi là sản phẩm của những khoảnh khắc lóe sáng,
"vụt hiện" của vô thức. Câu thơ, bài thơ là sự ú ớ của vô thức nên có
thể không "tải" thông điệp rõ ràng, nhưng nó lại từ chối cách hiểu áp
đặt chủ quan, suy diễn gò ép hiện thực của lý trí ráo hoảnh. Còn nói "làm
thơ là làm chữ" là nói chuyện hình thức, có nghĩa là chữ của thơ không là
những chữ quen thuộc đến nhàm mòn, sáo rỗng được dùng một cách tùy tiện, dễ dãi
mà phải là những chữ được lạ hóa, ám
dụ người đọc cùng sản sinh nghĩa.
Trong
bài "Đôi điều suy nghĩ về văn hóa
đọc thơ hôm nay" của tác giả Đặng Thu Thủy cũng có nhiều đoạn lập
luận, diễn đạt, theo tôi là không thỏa đáng.
Ở tr.431, tác giả viết: "...Thực tế đã cho thấy, sự cố gắng, thậm chí xả thân vì nghệ thuật của anh
rồi cũng chẳng ích gì nếu anh một mình đơn độc. Anh không thể thay thế độc giả
mà quyết định vận mệnh của thơ mình". Đúng, sáng tạo nên tác phẩm là việc của cá
nhân mỗi nhà thơ, nhưng ngoài giá trị tự thân của tác phẩm, độc giả là người có
vai trò quyết định giá trị đích thực của tác phẩm đó. Nhưng tôi nghĩ, nhà thơ "chỉ
một mình đơn độc" khi anh bất tài, khi sự cố gắng, xả thân của anh rốt cục
chỉ cho ra những thứ phi nghệ thuật, phản thơ mà thôi. Nghĩa là, ví như nói như
Nguyễn Đăng Điệp, thơ anh chỉ đi ra từ cái tôi bé nhỏ, dị biệt của anh mà không
đủ sức cộng hưởng với khách tri âm, không ôm chứa được hơi thở của thời đại; ví
như anh cứ lai căng tiếp nhận tùy tiện những thứ bên ngoài mà không có màng lọc
văn hóa, màng lọc tinh thần dân tộc để tinh tuyển; ví như anh cứ hô hào làm chữ
để chỉ cho ra những chữ rỗng nghĩa, vô hồn... Độc giả của một tác phẩm văn học
luôn ở số đông với đủ mọi tầm đón nhận, cách đọc, vì thế không việc gì phải nơm
nớp sợ họ bỏ sót những tác phẩm của mình, nếu nó hay thực sự. Nói như Trần Mạnh
Hảo, thơ ca, khi nó đã đạt được đến cái hay, nó còn lại, đến thời gian mà nó
còn không sợ nữa, huống hồ vài ba lời phủ định vu vơ.
Cũng ở tr.431, tác giả viết: "Những thử nghiệm tìm tòi của nhóm Xuân Thu nhã tập, của Trần Dần, Lê
Đạt, của Nguyễn Đình Thi,... đều trở thành lạc lõng và nhanh chóng đi đến hồi
kết thúc bởi thiếu một văn hóa đọc thơ tương ứng. Để rồi mấy chục năm sau, nó
lại được thử nghiệm lại. Nhưng rồi cái chung cục của nó có khác xưa?".
Không phải những thử nghiệm tìm tòi thơ rốt cục đều "trở thành lạc lõng và
nhanh chóng đi đến hồi kết thúc bởi một văn hóa đọc thơ tương ứng" như tác
giả viết. Những thủ lĩnh cách tân thơ như Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, ...
không hẳn "lạc lõng" vì bên cạnh họ vẫn có những bạn đọc ghi nhận
những thành công nhất định của họ. Những thử nghiệm của họ trên thực tế cũng
không có chuyện "nhanh chóng đi đến hồi kết thúc". Sau sự cố
"Nhân văn giai phẩm", họ chỉ tạm ngừng quyền công bố tác phẩm mà thôi
chứ quyền sáng tạo của họ, tư cách nghệ sỹ của họ thì không có thế lực nào có
thể tước đoạt nổi. Họ vẫn cứ đi tận cùng con đường mình đã đi, và ý thức cách
tân của họ, những thành công nhất định của họ đã và đang được thừa nhận. Trần
Dần, Lê Đạt đã được trao tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đó
thôi.
Ở tr.432, khi nói về tinh thần "dân chủ chữ", tinh
thần Freud "nổi loạn" thành thực phơi trải đam mê bản năng của thơ
trẻ, tác giả viết: "Cái gốc rễ khiến
thơ bùng phát không phải là những chiêm nghiệm của lý trí, tư duy mà trước hết
là của bản năng người". Theo tôi, câu nói của Tố Hữu "Thơ chỉ
tràn ra trong tim ta khi cuộc sống đã thật đầy" vẫn chưa hề lỗi thời. Cái
gốc rễ của thơ trước hết là bản năng người chỉ khi đó là bản năng thèm sống,
khát sống, sống "đủ đầy và mãnh liệt" với những cảm giác rất người.
Cái gốc rễ này phải xuyên qua màng lọc "lý trí, tư duy", "chiêm
nghiệm" đến độ có khả năng tự bốc cháy thành cảm xúc thì mới có thể vật chất hóa thành cái gọi là thơ, thơ
đích thực được.
Cũng ở tr.432, tác giả viết: "Các nhà thơ trẻ đã xác lập trở lại những giá trị đã bị đánh mất của thơ,
trong đó đáng chú ý nhất là ngôn ngữ. Thơ ta thường coi ngôn ngữ như một phương
tiện truyền tải chứ chưa xem nó như một phương tiện sáng tạo". Thực tế
cho thấy, những giá trị của thơ Việt chưa bao giờ bị đánh mất cả. Văn học, đặc
biệt là thơ, luôn được quan niệm là nghệ thuật của ngôn từ. Thời trung đại,
ngôn ngữ thơ được coi như một phương tiện truyền tải đạo lý, truyền tải chí
quân tử, ba mươi năm chiến tranh 1945 - 1975, do tính chất đặc biệt của lịch
sử, ngôn ngữ thơ lại được coi là phương tiện truyền tải tinh thần "xung
phong", "xung trận", mặc dù vậy quan niệm ngôn ngữ - phương tiện
truyền tải luôn gắn liền với quan niệm ngôn ngữ - phương tiện sáng tạo. Ta dễ
dàng chứng minh điều này bằng những bài thơ đạt đến trình độ điêu luyện, mẫu
mực cổ điển của thơ trung đại, những bài thơ đi cùng năm tháng của thơ thời đại
đánh Pháp, đuổi Mỹ của dân tộc. Ngày nay, nếu thơ trẻ chỉ coi ngôn ngữ như một
phương tiện sáng tạo, mà cái sản phẩm "sáng tạo" kia không mảy may
"truyền tải" tư tưởng, xúc cảm
thực thì rốt cuộc, chỉ làm ra cái gọi là "phản thơ". Lúc đó, họ
cứ tưởng mình đang "xác lập trở lại những giá trị đã bị đánh mất của
thơ" mà không ngờ rằng chính mình đang đánh mất những giá trị đã có, vốn
có của thơ.
Cuốn sách xuất bản lần đầu, đôi chỗ chưa thỏa đáng là điều không
tránh khỏi. Mà cái gọi là "chưa thỏa đáng" ở đây cũng chỉ từ góc nhìn
cá nhân, chủ quan của người đang "lạm bàn" mà thôi. Hi vọng từ góc
nhìn của nhiều người đọc "kỹ tính" khác, lần in sau, sách sẽ hoàn
thiện hơn./.
(*) Nguyễn
Văn Long - Lã Nhâm Thìn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
(Bài đã đăng Tạp chí Sông Hương số 4/2009 và Tạp chí Nhật Lệ số
4/2009)