Đọc lại bài thơ Đò Lèn của Nguyễn Duy
25-09-2026
Đọc lại bài thơ “Đò Lèn” của Nguyễn Duy
Trước đây, khi ngẫm đến với các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn
Duy như “Tre xanh”, “Ánh trăng” hay “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa”, tôi cứ cảm giác
như có một cái gì đó hao hao giống nhau, có lẽ là do âm điệu gần gũi, nhẹ nhàng,
trầm lắng. Nhưng sau này, khi gặp lại Nguyễn Duy với bài thơ “Đò Lèn” trong
sách giáo khoa Ngữ văn 12 (ở phần đọc thêm) thì tôi nhận ra ngay một điều khác
biệt. Cũng là thứ âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng thế giới trong thơ không
chỉ trong suốt một màu mà cảm xúc trong bài thơ khá phức tạp với những lớp kí
ức tuổi thơ và thực tại, hư và
thực, cuộc sống và tâm trạng, hôm qua và
hôm nay, hữu hạn và vô cùng, cõi người và cõi Phật..v..v.. Nó được cấu tứ trên
hai phương diện, hai hệ thống hình ảnh tương phản.
Hệ thống thứ nhất là không gian hư ảo, huyền hoặc, chập chờn
trong nghi ngút khói hương. Trong hai khổ thơ đầu là tuổi thơ hồn nhiên, đẹp
nhẹ nhàng của nhân vật tôi, tức tác giả. Cả tuổi thơ ngụp lặn trong miên man
những tượng Phật, chùa Trần, đền Cây Thị hay lễ đền Sòng. Không phải chỉ đến
chơi, bày những trò tinh nghịch như bao đứa trẻ khác, nhà thơ tương lai của
chúng ta còn bị cái chất hư ảo, huyền diệu của nó ngấm sâu vào tiềm thức:
“Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
Điệu hát Văn lảo đảo bóng cô đồng”.
Hệ thống thứ
hai là một không gian thực tại lam lũ, cơ cực của hình ảnh bà ngoại:
“Bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”.
Đọc lên, thấy dáng dấp, thân phận sao cứ giông giống như
“thập loại chúng sinh” trong thơ của đại thi hào Nguyễn Du thuở nào?
Vậy là, trong kí ức tác giả có hai thế giới khác nhau. Một
thế giới của Tiên, Phật, thánh thần và một thế giới của trần tục, của thực tại,
của bà ngoại tháng ngày lặn lội với nỗi lo cơm áo. Hai hình ảnh này đan xen lẫn
nhau trong không gian tuổi thơ nơi làng quê hiền lành, xa ngái, vừa cụ thể, vừa
sinh động lại vừa vô tư:
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư thực
Giữa bà tôi và Tiên Phật, thánh thần
Cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi hệ trắng, hương trầm”.
Ở đây chúng ta thấy một nghịch lý: Trong khi đói khát, lép
cả ruột gan, phải nuốt cả miếng khoai (dong, riềng) hãy còn luộc chưa chín, hãy
còn sượng, để khỏi cồn cào, khỏi hoa mắt…vậy mà đầu óc vẫn lảng vảng đâu đó
“mùi huệ trắng, hương trầm”…nghĩ mà thấy tội, thấy thương. Thêm một thực tế
nữa, cuộc chiến tranh tàn khốc ập đến, làm cho:
“Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn”…
Thực tế quá lớn. Cái màn sương khói, thánh thần hư ảo bao
bọc bấy lâu nay trong tiềm thức bỗng đột nhiên tan biến. Con người phải đối
diện với một thực tế trần trụi, phũ phàng đó là cuộc mưu sinh nhọc nhằn, vất
vưởng, bấp bênh và những đe doạ luôn rình rập.
Rồi thời gian và sự trưởng thành đã làm cho anh lính- nhà
thơ dần dần nhận ra:
“Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi”…
Bài thơ dừng lại trong khi mạch suy nghĩ, mạch cảm xúc đang
dâng trào. Kết thúc nhưng lại có sức lan tỏa cho người đọc sự suy nghĩ, tiếc
nuối. Nếu như đây là một câu chuyện của tuổi thơ thì nó lấp lánh những kí ức
hồn nhiên, đẹp đẽ. Nhưng nếu đây là câu chuyện của một kiếp người thì đằng sau
nó là dằng dặc những nỗi niềm của cõi nhân sinh…
Đinh Hữu Ngọc- Giáo viên tổ Ngữ Văn
Trường THPT Lương Thế Vinh.