(Đọc Kiếp lá[1]
và những bài thơ khác của Hoàng Đăng Khoa)
THỤY ANH
Học viên Cao học Lý luận văn học K.17 (2008-2010)
Trường ĐHSP Huế
Thơ khởi nguyên từ tâm. Nói như André Chénier:
“Nghệ thuật chỉ làm được những câu thơ khéo léo. Trái tim mới làm nên thi sĩ”. Thơ
Hoàng Đăng Khoa hướng nội. Tâm-thơ anh là những cuộc ngụp nhào miền kí ức. Kí ức dội tâm-thơ nổi sóng. Sóng từ Kiếp lá huyễn hoặc nối mạch đến những bài
thơ khác.
Khởi
nguyên sự lệch chuẩn
Võ Tấn Cường khi bàn đến sự lệch chuẩn thi ca
có viết: “Nhà thơ tạo sự lệch chuẩn tối đa về ngôn ngữ so với chuẩn mực ngôn
ngữ xã hội và làm co giãn ý nghĩa, cấu trúc của ngôn từ, giúp chúng sinh sôi
bất tận”[2]. Hoàng Đăng Khoa xem thơ mình khó đặt tên vì rằng chúng là những
câu vần ngọng nghịu. Nhưng chính cái ngọng nghịu ấy lại làm nên gương mặt
thơ anh. Ngọng nghịu để kiệm lời. Ngọng nghịu để xây toà ngôn từ riêng: đêm xâm xấp, lằn mưa quất, cuộc giao luồng, nhễ nhại sông, dùng dằng hạ sót, quạt
mát tình riêng, đêm hoải hoang, niềm trắc ẩn rạn rơi, mở nắp hồn, khát khô hồn
một hớp yêu xưa, huơ hoác con tim, rốn lũ cô đơn, bể lệ xâm thực, lạm phát nụ
cười, giọt chất người thánh khiết long lanh, milimet hiện sinh, rỗng rượi, đồng
trưa vung máu vàng roe, vô minh tự rán mình bằng vạc lệ, danh bạ bội thực đói
meo kết nối....
Ngôn từ tự
chế cùng kết cấu lỏng, đứt đoạn, khoảng trắng, Hoàng Đăng Khoa đã lệch thơ mình khỏi những thơ nhàm cũ. Lệch nhưng lại liên hoàn trong tâm thế
sáng tạo của người-thơ. Đường lệch ấy
là cơ sở để anh khẳng định cái nghiêng
trong thơ mình, cái nghiêng được bộc giãi, trải phơi bằng một tâm thức thăng hoa.
Jacques Lacan - nhà phân tâm học cho rằng: “Vô
thức được cấu trúc giống như ngôn ngữ” [3, chuyển dẫn]. Nghĩa là, vô
thức của tác giả được định dạng qua những kí hiệu, những biểu tượng mang tính
môtif. Cái môtif sẽ khai thông luồng chảy ngầm trong thơ. Khảo sát tập thơ Kiếp lá và các bài thơ khác của Hoàng
Đăng Khoa, chúng ta thấy từ nghiêng
xuất hiện khá nhiều. Cái nghiêng từ con người khúc xạ đến quê: ...dáng quê nghiêng chao sóng nước trời mây/
dáng chị gập người bên chậu quần áo ven bờ sông ngày nắng (Bóng quê). Cái
nghiêng từ không gian chạm vào thời gian: tàu
nghiêng tràn nỗi nhớ/ không thể chặt thêm nữa vòng tay; đêm nghiêng tràn tứ thơ/
câu chữ bất lực (Khúc giã bạn). Và chênh chao các thi ảnh. Mùa nghiêng: con nằm nhớ những ngày làng bạc nước/ mưa xé
trời rách thõng mái hiên/ cần rau muống đo chiều cao của lụt...; ... con khó
ngủ nghiêng mình nghe nước xối/ lợn góc nhà chốc chốc éc vô tâm// thẹp tỏi nổi
nênh chưa kịp nảy mầm/ bò ngoan hiền nằm nhai rơm thay cỏ... (Khát vọng
mùa). Thơ nghiêng: va đập tháng năm hồn
mới rỉ giọt thơ/ ta bán đổi gì đâu mà đời rẻ rúng (Tự vấn); người thức thời/ ừ thì ta phù phiếm (Tự
bạch); vớt hồn từ những vũng mê/ nhòe bức
tự họa tỉnh khô nhân quần (Dọc đường thơ). Tình nghiêng: cây tình người đơm trái/ hắt bóng miền dư âm
(Giao luồng); ta muốn lên chỗ cao như nơi núi chạm trời/ ta muốn ra chỗ xa như nơi
trời chạm nước/ gọi tên người/ ta muốn mách với càn khôn/ ta ngu ngơ vướng bùa mê
thuốc lú/ rạo rực lối đi/ chếnh choáng lối về (Tình yêu); cây ngày mai mọc cuối đêm nay/ mầm hạnh phúc
bao giờ mới nảy (Thơ khó đặt tên)...Đời
nghiêng: mẹ về phía…/ gió im/ sóng lặng/
sông đặc nước mắt (Rùng nghĩ)…
Cái
nghiêng hữu thức và vô thức lặp đi lặp lại hoà vào câu chữ, mở điệu nghiêng Kiếp lá: ngổn ngang những lá về đất/ chiếc nào đã đi tận cùng kiếp lá/ chiếc nào
kiệt sức sau ngả nghiêng gió dập mưa vùi/ chiếc nào vô ý sẩy chân giữa tiệc
mừng nắng mới. Như vậy, tính chất nghiêng
trở thành một kí hiệu, một mật mã để khai mở thế giới thơ Hoàng Đăng Khoa.
Mỗi bài thơ của Hoàng Đăng Khoa hoặc là một
lát cắt của kí ức bản đàn dứt vọng ngân
xao xuyến, hoặc là một lát cắt chiêm cảm về "thời tôi sống" - thời của những cuộc kết nối không thực hiện được. Nghiêng về miền dư âm,
anh có những dòng thơ "thong thả, hồn nhiên"(đánh giá của Hoàng Vũ Thuật[4]) của giọt sương đêm mát lạnh đê mê/ làn nắng sớm
ấm nồng ngây ngất. Nghiêng sang
hiện tại, anh đặt chân vào một tâm thế thơ, một cách-thơ khác: rỗng rượi như lốt con rắn vắt lại khóm cây
hoang.
Bóng quê, bóng người chông chênh thao thức
Cái nhìn ngoảnh
lại của Hoàng Đăng Khoa chông chênh cả dáng quê, người quê.
Làng quê 17 năm gắn bó, nơi nưng nức nồi nước xông chị nấu bảy thứ lá
cây, nơi có chuông nhà thờ dài như
thể niềm mơ, nơi heo may thở chông
chênh miền thiếu nữ... cứ lung linh thức, chênh vênh cả cõi tâm-thơ anh: ra đi từ làng quê chỉ đủ khoai thiếu lúa/ ta
nợ nần gì mà trả mãi không xong (Tự vấn). Làng chông chênh ấy
làrừng dương những trưa cào lá về nấu lợn
cảm giác trượt khỏi làng lạc chốn hoang
thèm bàn chân một lần chạm bờ bên ấy
khúc sông bí ẩn nguyên thủy một màu leo lẻo xanh
là miếu thờ Thành hoàng ngày không dám nhìn trong
gà gáy theo mẹ đi chợ nín thở bấm móng tay qua lùm cây trước cổng
là giếng đồng nứt nẻ dẳng dai mùa nóng
chắt nước các vũng bàn chân đánh phèn đem đun
(...)
là lò gạch có ông già trông giữ nghe đâu đã một lần chết
những buổi trốn cha đi bới đất sét cùng bọn trẻ đòi ông kể
chuyện dưới ma
ra về qua nghĩa địa không đứa nào chịu đi sau
ôm chặt hai vạt áo đựng đầy đất hồng hộc chạy
(Làng)
Có trải nghiệm làng đến từng milimet, Hoàng Đăng Khoa mới có thể viết những câu thơ đẫm
trĩu tình đến thế.
Cũng một góc nhìn ấy, hình ảnh mẹ chông chênh
dội vào thơ Hoàng Đăng Khoa. Từ chị
anh thấu lòng mẹ: nhìn cái cách chị chăm cháu con mới biết
mình nặng nợ/ trái sung quả khế chín tháng mười ngày mẹ tạc hình hài con/ con
tép con cua củ sắn quả dưa/ hao gầy mẹ đánh đổi phổng phao con ngày tháng
(Vẫn thiếu bài thơ mẹ). Chơ vơ nơi tha phương, trải thật giả sâu nông lòng thiên hạ, anh thấm thía tình mẹ mênh
mông: ...quên phía mình đau đáu phía đời
con// những đêm khuya bóng điện thức mỏi mòn/ cửa khép hờ phạc phờ giấc ngủ
muộn/ niềm vui con nhẹ tênh theo gió cuốn/ quầng thâm mắt mẹ ở lại với ngày
sau// chắt chiu con cơm ngọt canh ngon/ con đem đổi cơn say trào tiệc uống/
chăm chút con đệm êm chăn ấm/ con lấy về đêm mất ngủ khóc tình (...) mọi thứ
chẳng lành nguyên chỉ lòng mẹ nguyên lành/ thao thiết chảy xuống đời con xanh
tuổi (Mẹ). Năm qua đi, tháng qua đi, nhưng đôi vai tảo tần năm nào của mẹ
cứ rát hồn thi sĩ: vai mẹ trầy buổi chợ thời xa ngái/ sao rát
hồn ta đến tận bây giờ (Tự vấn).
Viết về
mẹ, anh càng quặn thắt về cha. Nếu
bóng mẹ chông chênh sớm khuya, mưa nắng thì bóng cha chông chênh những ngày làng bạc nước. Lụt về: thất bát mùa bố rít điếu dài hơn. Lụt đi bố ngả nong trải sách ra phơi/ từng cuốn
nặng đẫm giấc mơ cày cuốc (Khát vọng mùa). Dáng cha được xâu chuỗi bằng
những kỉ niệm: "xưa nồi cơm độn cha
nhận phần màu về mình/ để bát con ngọt ngon phần trắng" "xưa mưa bão
về nhà mình như thể không có mái/ cha ôm chặt con hâm ấm làn môi" "xưa
đi làm cha thường bách bộ/ để chiếc xe đạp cũ con được cưỡi đến trường"
"xưa nhà mình thiếu thốn nhưng luôn đầy đủ/ nay nhà mình đủ đầy nhưng lại thiếu cha/ cái bóng hạnh phúc ngày con đuổi bắt/ đêm về lòng quặn thắt khi kí ức gọi cha ơi" (Khoảng trống). Xưa đối sánh với nay, càng làm vết sẹo của nỗi đau tấy lên nhức nhối. Một khoảng trống không gì có thể lấp đầy.
Nghiêng về mẹ, nghiêng về cha, Hoàng Đăng Khoa còn nhập lồng hai
cái nghiêng về một:
năm xưa cha dọn cỗ đón giao thừa
con ngây ngô xúng xính chiếc bánh đòn bé tẹo
nay con tự tay dọn cỗ
đón gia tiên và cả đón cha
trầm hương dậy tim con lạnh buốt
con vịn tình thương ngập tràn của mẹ
để khỏi chết đuối vũng không cha
mẹ vịn đức tài đầu mùa con tặng
đi qua khoảng trống tuổi chưa già
rồi sẽ ngày mẹ về nơi cha nghỉ
rồi trong con mùa mãi… tàn đông
(Không về nữa mùa
xuân)
Khát cuồng điên một bờ
môi khác
Cái nghiêng trong sáng của miền mơ, miền khát,
miền nhớ đồng đẳng với cái nghiêng khát
cuồng điên một bờ môi khác. Hai góc độ nghiêng làm nên tâm thế thơ Hoàng Đăng
Khoa. Anh luôn ý thức tự làm mới mình để thơ thoát xác: năm mới thoáng chốc thành năm cũ/ niềm mơ này rồi cũng rong rêu (Đôi
khi). Gói bóng quê làm hành trang lơ
ngơ phố, những mảng kí ức tinh sạch
và mong manh/ như long lanh sương sớm dần nhường chỗ cho cái tâm thức, cảm
quan thơ lấm láp, rỗng rượi, hoang hoác.
Hoàng Đăng Khoa lộn trái nỗi đam mê/ dốc kiệt cùng câu chữ dấn thân vào một cuộc-thơ khác.
Thế giới của phố, của-người-lớn là thế giới
của những cuộc kết nối không thực hiện
được. Cuộc sống hiện đại là những mảnh ghép rời rạc: nhà dài như gì không biết nữa/ khóa cổng buông màn cho bớt bất an//sách cong mông úp mặt/ tô canh ngày thêm
nhạt// láp tốp cố đấm ngồi lên bụng/ cụp cánh nghiêng mình mặc cảm nằm im/ gã
bất lực tính dục/ sống cạn trách gì thơ cơm nguội// điện thoại ngủ vùi bên gối/
danh bạ bội thực/ đói meo kết nối// ti vi xếp bằng nói nhảm/ dẫu sao nhà có tiếng
người (Những cuộc kết nối không thực hiện được 2). Cái tôi thi sĩ rệu rã, cô đơn: gom nối tràng tràng kinh của chúng sinh kiếp kiếp cũng không chạm nổi
thiên đàng/ con sóng đa đoan cô đơn sông đi mãi không gặp bể/ con thằn lằn khó
ở nhảy trần nhà tự tử/ anh bất an đứa trẻ sơ sinh tiếng bộp rùng mình/ thằn lằn
không chết thằn lằn đứt đuôi (Những cuộc kết nối không thực hiện được 3). Anh và em là hai mảnh vỡ cô đơn. Em kết nối với anh không được. Anh kết nối với người anh yêu cũng không
thành:
em cộng anh bằng thừa em
anh cộng em bằng thiếu người anh thiếu
em biển triều cường
anh đồng trưa hạ khát
anh nối bao nhiêu khói thuốc cho tới nổi người dưng
em nhắn bao nhiêu lời yêu thương cho lấp nổi hồn anh hoang hoác
anh không thể yêu em anh thêm lần tan nát
anh thêm lần tan nát em thêm lần nát tan
người dưng vô can
biển đêm nén bung tiếng thở
đồng trưa vung máu vàng roe
(Những cuộc kết nối không thực hiện được 1)
Đúng như Trương Văn Hà nhận định: “Khoa viết bằng bút pháp
"truyền thống" đã thuyết phục, Khoa thử nghiệm bút pháp "hiện
đại" cũng bước đầu thành công. Khoa miêu tả cái cô đơn tột cùng của con
người thời đại với những so sánh liên tưởng lạ và ngộ” [5]. Tuy
nhiên, Hoàng Đăng Khoa luôn biết vượt lên chính mình bởi anh ý thức được rằng,
thơ là một cái gì như thể bờ bên kia của
biển, cuộc dấn thân thơ bất tận đòi hỏi phải trường vốn, "nỗ lực, nội
lực thâm hậu và sự lịch lãm văn hóa cần thiết"[6].
Một điều dễ nhận
thấy trong thơ Hoàng Đăng Khoa là cái tâm thế an nhiên, tự tại của một người
thơ sớm nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc tồn sinh. Vừa ngụp nhào trong lấm láp nhân gian trái đất chật chội, vừa tự thương lấy mình từng milimet hiện sinh. Giữa guồng quay thời cuộc, Hoàng Đăng Khoa cứ
hồn nhiên đi hết miền say, hồn nhiên hành
trình về phía thiện. Tâm thế người thơ chạm tâm-thế-Thiền.
Thiền hướng con người đến cõi cao khiết, thánh
thiện. Tâm-thơ Hoàng Đăng Khoa thể hiện vòng luân hồi chảy trôi khoẻ khoắn:
và sau cuối lá hồn nhiên về đất
làm hạt mùn tinh túy đỡ chồi lên
(Kiếp lá)
có gì tinh túy hơn giọt sương
chưng cất từ bầu vú đất sau cuộc giao hoan cùng trời
thanh thản vỡ khi bắt đầu nắng mới
chảy ngọt lành trong gân cốt cỏ cây
(Sương)
Mang tâm thức Thiền để dấn thân tìm tòi, thử
nghiệm, Hoàng Đăng Khoa bước đầu ít nhiều kiến tạo được từ trường thơ riêng mình. Người đọc đang kì vọng, chờ đợi ở anh cái
ngày lưng túi vỡ òa/ mùa gom nhặt mới.