Thử “ bàn” thêm nguyên nhân Liên Xô tan rã ?
17-09-2014
Thử “ bàn” thêm nguyên nhân Liên Xô tan rã ?
Đặng Viết Tiến – Tổ Sử
Sự sụp đổ
của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu cuối những năm 80 đầu những
năm 90 của thế kỷ XX là một sự kiện đặc biệt quan trọng của thế giới, là một
tổn thất hết sức to lớn của những người cộng sản trong quá trình hiện thực hóa
học thuyết Mác-Lênin. Sự tan rã của Liên bang Xô viết vào cuối 1991 đã làm thay
đổi căn bản cục diện chính trị thế giới.
Trong giai đoạn 1918 - 1920, nước Nga Xô
viết nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và bị bọn Bạch vệ (được sự hậu
thuẫn của nước ngoài) tấn công từ bốn phía. Trong giai đoạn đặc biệt khó khăn
này, nước Nga Xô viết non trẻ lâm vào thế "ngàn cân treo sợi tóc". Dưới
sự lãnh đạo của Lênin và Đảng Bonsevich, nước Nga Xô viết đã vượt qua thách
thức hiểm nghèo để tiếp tục phát triển.
Sau hơn
bảy chục năm tồn tại, phát triển không ngừng, vào cuối những năm 80 của thế kỷ
trước, Liên Xô đã trở thành một cường quốc hàng đầu thế giới. Với sức mạnh to
lớn về quân sự, khoa học công nghệ và kinh tế, Liên xô đủ sức đương đầu với hệ
thống tư bản thế giới và có khả năng ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động hiếu chiến
của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ hòa bình thế giới.
Đã có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài
viết, công trình chuyên khảo và sách lý giải vấn đề này, trong đó các cuốn sách
của những người trong cuộc đưa ra lời giải có sức thuyết phục nhất. Nhân kỷ
niệm 97 năm Cách mạng tháng Mười Nga (7/11/1917 - 7/11/2014), bài viết này nhằm
cung cấp một cái nhìn cận cảnh về sự tan rã của Liên Xô.
1. Hệ thống XHCN hiện thực với Liên Xô làm trụ cột đã có đóng góp
hết sức to lớn vào sự phát triển của thế giới.
Trong nửa
sau của thế kỷ XX, trên thế giới có hơn một chục Đảng Cộng sản cầm quyền, hình
thành một hệ thống XHCN hùng mạnh đủ sức kiềm chế mọi hành động đơn phương,
hiếu chiến chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ.
Chính nhờ sự tồn tại của hệ thống XHCN
hùng mạnh, hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã vùng lên làm cách mạng giải
phóng dân tộc, làm suy sụp chủ nghĩa thực dân cũ, làm thất bại chủ nghĩa thực
dân mới. Xét đến cùng, sự hình thành và phát triển của phong trào không liên
kết là thành quả của cuộc đấu tranh vô sản - tư sản trên phạm vi toàn cầu, là
thành tựu to lớn của các Đảng Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX. Nói cách
khác, chính những người cộng sản, trước hết là các Đảng Cộng sản cầm quyền ở
các nước thuộc hệ thống XHCN, đã ghi tạc một mốc son chói lọi vào tiến trình
phát triển văn minh nhân loại.
Các Đảng Cộng sản cầm quyền đã xây dựng
được một hệ thống xã hội hùng mạnh (hệ thống XHCN), trên nhiều lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội tốt đẹp hơn, ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản (CNTB). Cho đến
nay, sau 23 năm Liên Xô tan rã, vẫn có 59% người Nga được hỏi ý kiến cho rằng ở
chủ nghĩa xã hội nhiều điều tích cực hơn là tiêu cực, và đa số người Nga vẫn
nuối tiếc thời Xô viết vàng son.
Thật trớ trêu, chính các Đảng Cộng sản
cầm quyền, trước hết và chủ yếu là Đảng Cộng sản Liên Xô, lại để mất quyền lãnh
đạo, làm cho hệ thống XHCN hùng mạnh được họ dẫn dắt hàng trăm triệu người xây
dựng nên sụp đổ, tan rã. Cần lưu ý rằng Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh
đạo, Liên Xô tan rã mà không thông qua một cuộc chiến tranh với chủ nghĩa đế
quốc.
Thực chất, Đảng Cộng sản Liên Xô, trực tiếp
và chủ yếu là Bộ Chính trị, BCHTƯ đã tha hóa, đã tự đánh mất mình và làm cho
Liên Xô tan rã. Chính những người lãnh đạo cao nhất, các ủy viên Bộ Chính trị
Đảng CSLX đã thừa nhận điều đó. Tất nhiên, hoạt động chống phá của các thế lực
chống cộng quốc tế thông qua chiến lược "diễn biến hòa bình" cũng là
một nguyên nhân làm cho Liên Xô tan rã, nhưng chắc chắn không phải là nguyên
nhân chính, không phải là nguyên nhân chủ yếu.
2. Đảng Cộng sản Liên Xô đã tha hóa, biến chất như thế nào?
Sơ bộ có thể nêu ra một số biểu hiện lớn
sau đây:
- Một là, Đảng Cộng sản Liên Xô đã vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Đi liền với nó là các
bệnh tật: độc đoán, chuyên quyền, không chấp nhận những ý kiến khác với mình;
coi thường tập thể, coi thường cấp dưới, tự cho mọi ý kiến của mình là chân lý
buộc mọi người phải tuân theo, coi những ai có ý kiến ngược lại là chống đối,
thậm chí là thù địch, khi cần thiết bảo vệ "cái uy" của mình, họ sẵn
sàng đối xử với đồng chí, đồng đội như đối với kẻ thù. Kết quả là trong sinh
hoạt, đảng mất hết sinh khí, mất hết tính chiến đấu. Sinh hoạt đảng trở nên tẻ
nhạt, khô cứng, độc thoại một chiều. Trong điều kiện đó nhiều đảng viên trung
kiên, trong sáng không được trọng dụng, cố nín nhịn để tồn tại, những kẻ cơ
hội, nịnh bợ có điều kiện được thăng tiến.
- Hai là, Bộ Chính trị, BCHTƯ Đảng Cộng
sản Liên Xô đã quan liêu xa rời thực tiễn, để mất quan hệ máu thịt giữa Đảng
CSLX với nhân dân Liên Xô. Tệ quan liêu làm cho những người lãnh đạo các cấp
của Đảng CSLX xa rời thực tế, không có hiểu biết đúng đắn hiện trạng xã hội mà
mình đang lãnh đạo, quản lý. Họ thờ ơ trước những nguyện vọng chính đáng của
quần chúng, thậm chí không có rung động, phản ứng trước những nỗi thống khổ,
oan ức của một bộ phận quần chúng nhân dân, trong đó có cả một bộ phận đảng
viên, cán bộ cấp dưới.
- Ba là, những suy thoái về đạo đức, lối
sống của một số lãnh đạo cấp cao giữ vai trò chủ chốt với những biểu hiện nổi
bật: Sống ích kỷ, đặt lợi ích của bản thân, gia đình và người thân lên trên lợi
ích của Đảng, của nhân dân; cục bộ địa phương, kéo bè kéo cánh đưa những người
thân tín với mình, kể cả những người yếu về năng lực, kém về đạo đức, lối sống
vào những vị trí lãnh đạo để làm vây cánh, che chắn bảo vệ mình; tham ô, sống
xa hoa, nói một đằng làm một nẻo, cá biệt còn tha hoá, suy đồi về đạo đức, lối
sống.
Trên đây là những biểu hiện nổi bật chủ
yếu sự thoái hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô,
nhất là các cán bộ chủ chốt ở cấp cao.
Chỉ khi nào sự thoái hóa, biến chất diễn
ra tại trung tâm quyền lực (chóp bu) của Đảng thì mới trở thành nguy cơ đối với
Đảng, đó là đêm trước của sự tan rã, sụp đổ. Đảng Cộng sản Liên Xô và các
"phiên bản" Đông Âu của nó thuộc trường hợp này.
Thông thường các biểu hiện trên không
tồn tại biệt lập, mà luôn song hành, có quan hệ với nhau, tác động với nhau, có
lúc cái này làm tiền đề, điều kiện cho cái kia tồn tại và phát triển. Những
biểu hiện thoái hoá nói trên, không bỗng nhiên xuất hiện, mà có một quá trình
từ chớm nở như một ung nhọt nhỏ rồi phát triển qua nhiều giai đoạn. Những bệnh
tật này lặng lẽ tích dồn liên tục trong nhiều tháng, nhiều năm làm Đảng mất sức
chiến đấu, thiếu nhạy bén, không đưa ra được đường lối, quyết sách đúng đắn,
khả thi. Trong Đảng CSLX đã thực sự có phân hoá: Một bộ phận cán bộ, đảng viên
giàu lên nhanh chóng do đặc quyền, đặc lợi, đại bộ phận sống khó khăn; nhiều
đảng viên nói một đằng làm một nẻo, trong cuộc họp nói khác ngoài cuộc họp, suy
nghĩ một đằng phát biểu một nẻo. Tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng dần dần nguội
lạnh, nhiều đảng viên trở nên thờ ơ trước những vấn đề chính trị có quan hệ đến
vận mệnh của Đảng CSLX.
Theo Ph. M. Rudinxki, có thể chia 20
triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô làm 4 loại: 1, Những đảng viên chân chính
thường chiếm tỷ lệ nhỏ, 2. Những người thực hiện, chấp hành chỉ thị, nghị quyết
của Đảng như cái máy (chiếm khoảng hơn 96 %); 3. Những kẻ cơ hội , xu thời,
nịnh bợ (phần lớn trong bộ máy công quyền) ; 4. Những người im lặng (phần lớn
họ là những người có hiểu biết nhưng sợ bị trù dập nên họ giữ im lặng, không
dám phát biểu).
N. I. Rưscôp, nguyên ủy viên Bộ
Chính trị ĐCS Liên Xô, Thủ tướng Liên Xô (1985 - 1990) cho rằng: Tồn tại hai
Đảng trong Đảng Cộng sản Liên Xô: Một đảng của hàng chục triệu đảng viên bình
thường và một đảng của những quan chức chóp bu trong hệ thống đảng, nhà nước
Liên Xô . Những đảng viên nắm quyền lực ở cấp cao ngày càng xa rời, cách biệt
với hàng chục triệu đảng viên bình thường. Số đảng viên này, về thực chất,
không đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp, của dân tộc, mà chỉ tìm mọi cách
bám giữ quyền lực vì lợi ích cá nhân của họ.
Do những bệnh tật kể trên, đại bộ phận
quần chúng nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng CSLX, thờ ơ đối
với những vấn đề chính trị trọng đại của đất nước, thậm chí có một số trông
chờ, mong muốn có sự thay đổi. Chính đó là trạng thái trong Đảng Cộng sản Liên
Xô và trong xã hội Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ
XX, đêm trước của sự sụp đổ, tan rã (1989 - 1991).
3. Thử bàn về các nguyên nhân.
Về hoạt động chống phá của Mỹ và các thế
lực chống cộng quốc tế thì rõ ràng, có đầy đủ thông tin, tư liệu để khẳng định.
Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác.
Mặt trái của cơ chế thị trường cũng là
một nguyên nhân. Nhưng nếu quá nhấn mạnh, cường điệu mặt trái của cơ chế thị
trường thì khó lòng giải thích được những thoái hoá của Đảng Cộng sản Liên Xô,
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong thời kỳ Mao Trạch Đông, Xtalin và Brê-giơ-nhép
nép lãnh đạo, vì thời Mao, thời Xtalin, thời Brê-giơ-nhép chưa có kinh tế thị
trường.
Nghiên cứu kỹ quá trình thoái hoá của
Đảng Cộng sản Liên Xô, kể cả những đảng cầm quyền rồi mất quyền và những đảng
hiện nay còn cầm quyền, chúng tôi xin nêu ra hai vấn đề để trao đổi, thảo luận.
- Một là, về mặt tổ chức, trong suốt quá
trình tồn tại, phát triển của mình, Đảng Cộng sản Liên Xô chưa xây dựng được cơ
chế hữu hiệu để đảm bảo dân chủ thực sự trong sinh hoạt Đảng. Đảng CSLX đã vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong suốt quá trình hoạt động. Theo chúng
tôi, đây là điểm khởi thuỷ, nguồn gốc của mọi biểu hiện khác về sự thoái hoá
của Đảng CSLX (quan liêu, tha hoá về tư tưởng chính trị, thoái hoá về đạo đức,
lối sống, chia rẽ mất đoàn kết...). Ở đâu và khi nào trong sinh hoạt đảng thể hiện
sục sôi dân chủ, thì đảng có sức sống mãnh liệt. Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích Nga
dưới thời lãnh đạo của Lênin là một ví dụ điển hình.
Xét đến cùng, do thiếu dân chủ trong
sinh hoạt Đảng nên cơ quan lãnh đạo của Đảng CSLX thiếu thông tin nhiều mặt về
một vấn đề, đặc biệt là những vấn đề hệ trọng quan hệ đến sinh tồn của Đảng.
Thiếu dân chủ cho nên trong sinh hoạt đảng thường là độc thoại một chiều từ
những người lãnh đạo cao nhất, thiếu hẳn thông tin phản hồi từ dưới lên. Thiếu
dân chủ, nên những đảng viên ưu tú, nhạy bén, sắc sảo, thông minh không có chỗ
để thể hiện ý tưởng của mình. Trong một tổ chức như vậy, bộ tham mưu cao nhất
không có đủ thông tin nhiều chiều, toàn diện, do đó những quyết định về đường
lối, sách lược thường không phù hợp với thực tiễn, thậm chí trái ngược với quy
luật, ngược với hiện thực khách quan. Phải chăng, đó là một trong những nguyên
nhân căn bản dẫn đến tình trạng nghị quyết, chỉ thị rất nhiều nhưng việc đưa
vào cuộc sống không được bao nhiêu. Theo ngôn ngữ y học, thuốc rất nhiều nhưng
không có loại đặc trị, nên bệnh tình sẽ ngày càng trầm trọng.
Dưới góc độ lý thuyết hệ thống, có thể
xem một tổ chức đảng như một hệ thống. Để đảm bảo cho hệ thống đó tồn tại bền
vững, nhất thiết phải có trao đổi thông tin. Nếu thiếu trao đổi thông tin (theo
2 chiều thuận - nghịch, từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong) thì sớm muộn hệ
thống đó sẽ bị đổ vỡ để chuyển sang một trạng thái khác. Thiếu dân chủ trong
sinh hoạt đảng, tức là thiếu trao đổi thông tin (trên xuống, dưới lên, trong
đảng ra ngoài xã hội và ngược lại). Nếu trạng thái này kéo dài thì sẽ sinh ra
thoái hóa của hệ thống đảng dưới nhiều biểu hiện như đã trình bày ở trên. Nếu
không khắc phục được, để kéo dài, thì sớm muộn sự thoái hóa của một số đảng
viên ở vị trí chủ chốt sẽ dẫn đến sự thoái hóa của đảng cầm quyền.
Hãy trở lại với Đảng Cộng sản Liên Xô để
chúng ta hiểu rõ vấn đề dân chủ trong đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
sinh hoạt Đảng được ghi rõ trong Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Bôn - sê
- vích Nga từ năm 1903. Điều lệ Đảng Cộng sản Liên Xô, qua nhiều lần thay đổi,
vẫn là một văn bản quy định rất chặt chẽ, rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của
đảng viên. Tại sao không ngăn chặn được những biến thái lệch lạc của Xta-lin,
Brê-giơ-nhép, không ngăn chặn được hành vi lạm quyền, lộng quyền và phản bội
của Góoc-ba-chốp? Cớ sao hàng chục triệu đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô không
có phản ứng gì khi Góoc-ba-chốp tuyên bố giải tán Đảng? Không thể nói cách
khác, thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng và không có cơ chế giám sát quyền lực
hữu hiệu, đặc biệt là thiếu hẳn cơ chế giám sát hoạt động của Tổng bí thư, của
Bộ Chính trị là nguồn gốc sinh ra tệ lạm quyền, lộng quyền của những người lãnh
đạo Đảng CSLX, làm cho đảng có một xác thịt to lớn (hàng chục triệu đảng viên),
nhưng không có hồn, không có sức sống.
Thực tế xác nhận: Đảng CSLX trước đây
không có lực lượng nào và không có cơ chế nào thực hiện giám sát và phản biện
hoạt động của Tổng Bí thư, của Bộ Chính trị. Một nhóm nhỏ này, có khi chỉ dăm
ba người nắm quyền lực tối cao, tự tung tự tác, ai có ý kiến khác sẽ bị họ chụp
cho cái mũ là "chống đối", "là phản động", "là chống
Đảng", thậm chí là "phản bội Tổ quốc"...
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt
Đảng mà các thành viên trong tổ chức có quan hệ với nhau rất lỏng lẻo, đảng mất
hết sức sống, tính chiến đấu chỉ còn lại trong nghị quyết.
Do thiếu dân chủ trong sinh hoạt Đảng,
mà một thời gian dài trước khi sụp đổ, tan rã, trong Đảng Cộng sản Liên Xô cũng
như trong các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN ở Đông Âu đã lặng lẽ diễn ra một
quá trình phân hóa trong đảng, cả trong sinh hoạt Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị. Các đảng viên nghĩ một đằng phát biểu một đằng, không dám thể hiện
chính kiến của mình ngay cả đối với vấn đề quan hệ đến sinh tồn của Đảng. Trong
cuộc họp người ta nói một đằng, mà phần lớn không thật lòng, ngoài cuộc họp
người ta nói riêng với nhau lại khác, cấp trên áp đặt, cấp dưới điều chỉnh hành
vi cho phù hợp với cấp trên, mọi thông tin chính thức từ trên xuống và
đặc biệt là từ dưới lên đều thiếu chân thật. Chưa đến một tháng trước khi tan
rã, mất quyền lãnh đạo, những người lãnh đạo của một Đảng Cộng sản cầm quyền
vẫn khẳng định sức chiến đấu của đảng mình, vẫn tuyên bố tuyệt đại bộ phận nhân
dân còn ơn đảng, theo đảng, tin đảng và tuyệt đại đa số đảng viên là tin cậy,
trung thành...!
Cũng do thiếu dân chủ trong sinh hoạt
Đảng mà Đảng CSLX đã mắc sai lầm trong việc đánh giá cán bộ, đào tạo cán bộ,
tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ vào vị trí chủ chốt trong Đảng, trong Nhà
nước. Thiếu dân chủ là bà đỡ của thói nịnh bợ, luồn lọt, là điều kiện tốt cho
chủ nghĩa thực dụng, cơ hội vị kỷ phát sinh tồn tại trong đảng, nhất là ở các
cơ quan lãnh đạo cấp cao. Ai cũng biết cán bộ quyết định tất cả, và thực tiễn
cũng xác nhận điều đó. Nhưng Đảng CSLX phạm sai lầm trong công tác sử dụng, bố
trí cán bộ.
- Hai là, sự thoái hóa của Đảng CSLX là
do các đảng viên, trước hết và chủ yếu là các đảng viên trước hết giữ vị trí
lãnh đạo chủ chốt ở cấp cao, chưa đủ độ chín muồi về mặt chính trị, chưa thực
sự giác ngộ về giai cấp, về lý tưởng cộng sản. Khi kết nạp mọi đảng viên đều
tuyên thệ về sự giác ngộ lý tưởng cộng sản của mình, hứa hẹn một lòng một dạ
phấn đấu vì lợi ích của giai cấp, của những người lao động, nguyện
trung thành với lý tưởng cộng sản... Nhưng khi đã vào đảng rồi thì họ thiếu rèn
luyện và trong hoạt động thực tiễn, họ dần dần xa rời những lời tuyên thệ, hứa
hẹn của mình. Đó là quá trình tha hóa của đảng viên, và kéo theo sự tha hóa của
đảng. Tất nhiên, không phải mọi đảng viên đều diễn ra quá trình tha hóa đó.
Tất nhiên, còn nhiều vấn đề thuộc về
nguyên nhân và điều kiện làm cho Đảng CSLX thoái hóa, Liên Xô tan rã. Ở đây
chúng tôi không có điều kiện để trình bày tất cả, chỉ nêu ra những nhân tố quan
trọng nhất, cơ bản nhất. Có thể xem nó là nguồn gốc của mọi thoái hóa của Đảng
cầm quyền nói chung, của Đảng CSLX nói riêng.
Năm 2013, nhân dân Nga nói riêng, nhân
dân 15 nước Cộng hòa thuộc Liên Xô (cũ) cũng như nhân dân Việt Nam và nhân loại
tiến bộ nói chung, kỷ niệm 97 năm Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại (7/11/1917 -
7/11/2014 Chủ nghĩa xã hội đã tồn tại 74 năm tại nước Nga (1917 - 1991) và Liên
Xô tan rã đã 23 năm (1991 - 2014). Người Nga nói riêng, nhân loại tiến bộ nói
chung, còn phải tiếp tục nghiên cứu lý giải một cách cặn kẽ và có sức thuyết
phục về những vấn đề liên quan đến sự tan rã của Liên Xô.
Sau chừng ấy thời gian, cho phép chúng
ta khái quát ba vấn đề lớn sau:
- Một là, từ Cách mạng tháng Mười Nga
đến khi Liên Xô tan rã (1917 - 1991) có thể phân kỳ như sau: 1. Thế hệ cách
mạng đầu tiên do Lênin lãnh đạo đã đưa nước Nga Xô viết non trẻ vượt qua thử
thách "ngàn cân treo sợi tóc" 1917 - 1920 để tồn tại và phát triển;
2. Thế hệ lãnh đạo thứ hai do Stalin lãnh đạo đã tiêu diệt Chủ nghĩa phát xít
Đức - Nhật - Ý và đưa Liên Xô trở thành cường quốc thế giới; 3; Thế hệ lãnh đạo
thứ ba ở Liên Xô từ Khơrusốp đến Bregiơnép là những người đã tham gia Chiến
tranh Vệ quốc vĩ đại (1941 - 1945) và họ đã đưa Liên Xô trở thành cường quốc
hàng đầu thế giới; 4. Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Góocbachop, là những
người sinh ra trong thời kỳ chiến tranh vệ quốc vĩ đại và chưa nếm trải thử
thách của chiến tranh.
Chính thế hệ lãnh đạo thứ tư đã làm cho
Đảng CSLX mất quyền lãnh đạo, làm cho Liên Xô tan rã.
- Hai là, thế hệ lãnh đạo thứ tư ở Liên
Xô với Góocbachop là hạt nhân đã nắm trong tay mọi quyền lực và mọi nguồn lực
của đất nước, nhưng họ không thuận theo lòng dân, không được dân ủng hộ nên
đánh mất toàn bộ cơ đồ sự nghiệp và bị lịch sử vứt vào sọt rác.
Hóa ra, việc thâu tóm được mọi quyền lực
và mọi nguồn lực quốc gia không khó bằng nắm được lòng dân. Những ai không nắm
được lòng dân thì họ đã thất bại ngay khi đang nắm quyền lực.
- Ba là, các đảng cộng sản đang cầm
quyền và chưa cầm quyền cần rút ra bài học từ thất bại của Đảng CSLX, từ sự tan
rã của Liên Xô để vượt qua chính mình vì hạnh phúc của nhân dân và sự hưng
thịnh của đất nước.
Sai lầm và khuyết điểm rất khó tránh,
nhưng không thực sự nguy hiểm. Điều nguy hiểm nhất là không dám thừa nhận sai
lầm, khuyết điểm, đặc biệt là không có quyết tâm chính trị để tránh sai lầm,
khắc phục khuyết điểm.
Ba Đồn, tháng 10/2014